Hiển thị các bài đăng có nhãn Đỗ Đình Tuân. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Đỗ Đình Tuân. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Năm, 31 tháng 7, 2014

Những câu thơ tầm vóc về Trần Hưng Đạo

                                                  
                  
Truyền thuyết về Viên Lăng, có kể về đám tang của Trần Hưng Đạo vào mùa thu năm Canh Tý (1300) như sau: Suốt ba gian nhà lớn để 72 chiếc quan tài giống nhau như đúc (72 chiếc quan tài này biểu trưng cho 72 năm sinh thời của Trần Hưng Đạo). Khi đưa tang, 72 chiếc quan tài này được chia đều về 3 địa điểm: 24 chiếc đưa về Trần Thương, 24 chiếc đưa về Tức Mặc, 24 chiếc còn lại đưa ra núi Ngọc. Chôn cất xong lại san phẳng, rồi trồng cây như cũ. Từ đó núi Ngọc mang tên mới là Viên Lăng, có nghĩa là “Vườn mộ”. Nhưng truyền thuyết không kể gì về không khí tang tóc buồn đau của đám tang ấy cả.

Chỉ có KHÓC HƯNG ĐẠO VƯƠNG của Phạm Ngũ Lão là nói khá rõ về cái không khí đau buồn lúc ấy: sau khi  nghe tiếng chuông hồi, tâm trạng Phamh Ngũ Lão choáng ngợp trong một nỗi buồn nặng nề u ám:

Thu phong tiêu tán bất thăng bi

(Gió thu xua tan mây, nhưng không xua tan được nỗi buồn)

Rồi cái nỗi buồn ấy như mau chóng lan tỏa ra khắp đất trời:

Vũ  ám trường giang không lệ huyết

Vân đê phúc đạo tỏa sầu mi

(Mưa đen dòng sông dài, trời khóc như nhỏ máu

Mây tuôn đầy lối ngõ khóa chặt nỗi buồn đau)

Thật là một không khí tang tóc đang bao trùm lên tất cả ! Đó cũng là bài thơ duy nhất của người đương thời viết về đám tang này.

Ở những đời sau, thơ viết về Trần Hưng Đạo, thường đánh giá, suy tôn về đức độ và võ công của Người:

Sinh phùng gia hấn thệ thâu trung

Mậu kiến trùng hưng đệ nhất công

(Sinh thời gặp lúc gia đình có xích mích, ông thề giữ đạo trung

Giúp nên cơ nghiệp trùng hưng, công lao của ông vào bậc nhất)

Hoặc:

Công mãn Nam thiên thùy trúc bạch

Uy dư Đông hải thiếp ba đào

(Công lao đầy khoảng trời Nam, sử xanh ghi chép

Uy linh khắp miền Đông hải, sóng cả yên lặng)

                                      Cao Bá Quát

Hoặc nữa:

Sát khước hồ Nguyên bách vạn binh

Trần triều danh tướng trạc vương linh

(Giết phăng trăm vạn quân rợ nguyên

Vị tướng tài đời Trần oai linh lừng lẫy)

                             Nguyễn Thiện Thuật

Đọc những câu thơ tầm vóc ấy, lòng ta thấy sảng khoái lạ. Sẽ càng thấy lý thú hơn khi những câu thơ ấy còn thể hiện  cái dư uy thần thánh của Trần Hưng Đạo:

Một hậu uy do tồi Bắc lỗ

Ỷ thiên trường kiếm dạ minh phong

(Ông tuy thác rồi mà cái uy thừa còn phá tan giặc Bắc

Thanh kiếm dài tựa vào trời khi xưa đêm đêm thường kêu rít trong gió)

                              Đặng Minh Khiêm

Cái dư uy ấy sẽ còn mãi cùng non sông đất nước, với núi Vạn Kiếp, với sông Lục đầu:

Vạn Kiếp hữu sơn giai kiếm khí

Lục Đầu vô thủy bất thu thanh

(Núi Vạn Kiếp đều mang uy kiếm tuốt

Sông Lục Đầu đâu chẳng sóng quân reo)

                                    Vũ Phạm Hàm

Trong thực tế lịch sử, cái dư uy thần thánh của Trần Hưng Đạo đã từng là nguồn cổ vũ động viên và tiếp sức cho nhiều thế hệ anh hùng cứu nước của dân tộc. Cho nên không phải ngẫu nhiên mà trong Đề Trần Hưng Đạo vương từ, Nguyến Thiện Thuật đã từ lòng tự hào thán phục, đến hoài cảm mênh mang và kết thúc bắng một tâm nguyện, một quyết tâm:

Nguyện bằng nhất kiếm thanh quần xú

Quỷ độc như kim thậm Bá Linh.

(Muốn nhờ oai gươm thiêng trừ hết bọn quỷ xấu -Chỉ bọn thực dân Pháp-

Ngày nay chúng còn độc ác hơn bọn Bá Linh xưa -chỉ Phạm Nhan-).

Những áng thơ trên đã làm sáng lên một lẽ lớn: một nhận thức đúng, một tình cảm đẹp, đối với quá khứ oanh liệt của tổ tiên, luôn luôn là một nguồn lực cho hiện tại. Đúng là Nguyễn Thiện Thuất chưa thực hiện được điều tâm niệm của mình, nhưng mạch ngầm lịch sử đã truyền qua tấm gương hy sinh và chiến đấu của ông đến những thế hệ nối tiếp, dẫn dắt dân tộc ta đến cách mạng tháng Tám , đến lứng lẫy Điện Biên chấn động địa cầu.

17/5/2014

Đỗ Đình Tuân

Thứ Hai, 19 tháng 5, 2014

Dịch thơ Nguyễn Du 27



Bài 26


Mộng đắc hái sen
 
夢得採蓮
Mộng đắc thái liên
緊束蛺蝶裙
Khẩn thúc kiệp điệp quần
採蓮棹小艇
Thái liên trạo tiểu đĩnh
湖水何浺瀜
Hồ thủy hà xung dung
水中有人影
Thủy trung hữu nhân ảnh
採採西湖蓮
Thái thái Tây Hồ liên
花實俱上船
Hoa thực câu thướng thuyền
花以贈所畏
Hoa dĩ tặng sở úy
實以贈所憐
Thực dĩ tặng sở liên
今晨去採蓮
Kim thần khứ thái liên
乃約東鄰女
Nãi ước đông lân nữ
不知來不知
Bất tri lai bất tri
隔花聞笑語
Cách hoa văn tiếu ngữ
共知憐蓮花
Cộng tri liên liên hoa
誰者憐蓮幹
Thùy giả liên liên cán
其中有眞絲
Kì trung hữu chân ti
牽連不可斷
Khiên liên bất khả đoạn
蓮葉何青青
Liên diệp hà thanh thanh
蓮花嬌盈盈
Liên hoa kiều doanh doanh
採之勿傷藕
Thái chi vật thương ngẫu
明年不復生
Minh niên bất phục sinh



Dịch nghĩa: Mộng thấy hái sen

Buộc chặt quần cánh bướm
Chèo thuyền con hái sen
Nước hồ sao lai láng
Trong nước có bóng người

Hái, hái sen Hồ Tây
Hoa và gương sen đều để trên thuyền
Hoa để tặng người mình trọng
Gương để tặng người mình thương

Sớm nay đi hái sen
Nên hẹn với cô láng giềng
Chẳng biết đến lúc nào không biết
Cách hoa nghe tiếng cười

Mọi người đều biết yêu hoa sen
Nhưng ai là kẻ yêu thân sen
Trong thân cây sen thật có tơ sen
Vương vấn không đứt được

Lá sen sao mà xanh xanh
Hoa sen đẹp đầy đặn
Hái sen chớ làm tổn thương ngó sen
Sang năm sen không mọc lại được

Dịch thơ: Mộng thấy hái sen

Buộc ngay váy cánh bướm
Chèo thuyền nhỏ hái sen
Nước hồ sao lai láng
Trong nước kìa bóng em.

Hồ Tây hái hái sen
Hoa bát để trên thuyền
Hoa tặng người mình nể
Bát tặng người mình thương.
 

Sáng nay đi hái sen
Hẹn với cô làng giềng
Đến lúc nào chẳng biết
Cách hoa cười khúc khích.
 

Cùng biết yêu hoa sen
Ai biết yêu thân sen
Trong đó có tơ bám
Vương vấn lòng đôi bên.
 

Lá sen sao xanh xanh
Hoa sen đẹp tròn vành
Hái hoa đừng bẻ ngó
Để sen còn tái sinh.

          Đỗ Đình Tuân
            (dịch thơ)

17/5/2014

Đỗ Đình Tuân

Chủ Nhật, 18 tháng 5, 2014

Dịch thơ Nguyễn Du 26



                               Nam trung tạp ngâm
Bài 25 (001NTTN)

Phượng Hoàng lộ thượng tảo hành

鳳凰路上早行
Phượng Hoàng (1) lộ thượng tảo hành
征夫懷往路
Chinh phu hoài vãng lộ (2)
夜色尙蒙蒙
Dạ sắc thượng mông mông
月落猿聲外
Nguyệt lạc viên thanh ngoại
人行虎跡中
Nhân hành hổ tích trung
力衰常畏露
Lực suy thường úy lộ (3)
髮短不禁風
Phát đoản bất cấm phong
野宿逢樵者
Dã túc phùng tiều giả
相憐不在同
Tương liên bất tại đồng (4)

Dịch nghĩa: Sáng sớm đi trên đường núi Phượng Hoàng

Khách lữ hành nghĩ đến con đường trước mặt
Sắc trời đêm vẫn còn mờ mờ
Trăng lặn ngoài nơi có tiếng vượn hú
Người đi trong chốn cọp in dấu chân
Sức yếu thường sợ sương móc
Tóc ngắn không ngại gió thổi
Đêm ngủ nơi đồng quê gặp người đốn củi
Thương nhau không vì chỗ giống nhau

Dịch thơ: Trên đường Phượng Hoàng

Người đi nhớ con đường
Lờ mờ trong đêm trường
Trăng lặn ngoài tiếng vượn
Người bước trong chân hùm
Tóc ngắn không ngại gió
Sức yếu sợ móc sương
Đêm gặp người đốn củi
Khác nhau mà vẫn thương.
                  Đỗ Đình Tuân
                    (dịch thơ)

Chú thích:
(1) Phượng Hoàng: Từ Hà Tĩnh đi vào có núi Phượng Hoàng. Năm Giáp Tý (1804) Nguyễn Du đương làm Tri phủ Thường Tín thì bị bệnh, xin từ chức. Về quê nghỉ được hơn một tháng lại có chỉ gọi vào Kinh. Bài này làm trên đường lai kinh và mở đầu cho tập Nam Trung Tạp Ngâm.
(2) Vãng lộ: Con đường sắp đi qua.
(3) Úy lộ: Chữ "lộ" ở đây là sương móc. Có chỗ chép chữ "lộ" là đường. Chép như thế không đúng, vì ở câu đầu đã nói đến 往路"vãng lộ" rồi.
(4) Bất tại đồng: Thường thường thì "đồng bệnh tương liên". Nhưng đối với trường hợp này thì không đồng cảnh ngộ, không đồng tâm sự, nhưng vẫn thương nhau.
16/5/2014
Đỗ Đình Tuân

Mưa đêm




 Đương nồng gặp trận mưa đêm
Nghe trong giấc ngủ cũng mềm dịu hơn
Nào hay sình sịch mưa tuôn
Trong mơ chỉ thấy chập chờn bứớm hoa.

18/5/2014
Đỗ Đình Tuân

Thứ Bảy, 17 tháng 5, 2014

Dịch thơ Nguyễn Du 25


Bài 24

Điệp tử thư trung



蝶死書中
Điệp tử thư trung
芸窗曾幾染書香
Vân song (1) tằng kỷ nhiễm thư hương
謝卻風流未是狂
Tạ khước phong lưu vị thị cuồng
薄命有緣留簡籍
Bạc mệnh hữu duyên (2) lưu giản tịch (3)
殘魂無淚哭文章
Tàn hồn vô lệ khốc văn chương
蠹魚易醒繁花夢
Đố ngư (4) dị tỉnh phồn hoa mộng (5)
螢火難灰錦繡腸
Huỳnh hỏa nan hôi cẩm tú trường
聞道也應甘一死
Văn đạo (6) dã ưng cam nhất tử
淫書猶勝爲花忙
Dâm thư do thắng vị hoa mang (7)

Dịch nghĩa: Bướm chết trong sách

Nơi cửa sổ trồng cỏ vân đã từng bao lần đượm mùi hương sách vở
Từ bỏ phong lưu chưa hẳn là dại
Mệnh bạc nhưng có duyên được lưu lại trong sách vở
Hồn tàn không nước mắt khoác văn chương
Con mọt sách dễ tỉnh giấc mộng phồn hoa
Lửa đom đóm khó đốt cháy tấm lòng gấm vóc
Được nghe đạo lý rồi chết cũng cam
Say đắm vào sách còn hơn đa mang vì hoa.

Dịch thơ: Bướm chết trong sách
Bao lần cử sổ đượm mùi hương
Từ bỏ phong lưu chẳng phải cuồng
Bạc mệnh còn duyên lưu sách vở
Tàn đời không lệ khóc văn chương
Mọt già dễ tỉnh giầu sang mộng
Lửa đóm thiêu sao tấc dạ vàng
Đạo lý nghe rồi vui vẻ chết
Hơn là hoa bướm tiếng đa mang.

                          Đỗ Đình Tuân
                            (dịch thơ)
Chú thích:
(1) Vân song: Cửa sổ trồng cỏ vân hương. Tức thư phòng.
(2) Bạc mệnh hữu duyên: Nghe truyền là: "Khô cốt hữu duyên lưu giản tịch".
(3) Giản tịch: Giản là thẻ tre. Ngày xưa chưa có giấy, dùng thẻ tre để ghi chép. Tịch là sổ sách.
(4) Đố ngư: Dịch tạm là mọt sách. Nhưng không phải giống mọt như mọt cây gỗ, vì không có vỏ cứng. Đây là một loại gián nhỏ, không cánh, có ba lông đuôi như ba sợi râu.
(5) Phồn hoa mộng: Mộng giàu sang.
(6) Văn đạo: Nghe được Đạo. Do câu nói của Khổng Tử trong sách Luận Ngữ 論語 :
"Triêu văn đạo tịch tử khả hĩ" 朝聞道,夕死可矣!Nghĩa là: "Sáng nghe đuợc đạo lý,
chiều tối chết cũng hả lòng".
(7) Vị hoa mang: Câu này nghe truyền là: "Vi hoa vương". Nghĩa là vì hoa mà thác
(vong). Chữ "vương" đắc thế hơn chữ "mang". Trên kia chép theo bản Thi Vũ ở Pháp gởi tặng.
14/5/2014
Đỗ Đình Tuân

Thứ Sáu, 16 tháng 5, 2014

Dịch thơ Nguyễn Du 24






Bài 23 (064 )

Xuân tiêu lữ thứ
春宵旅次
Xuân tiêu lữ thứ (1)
蕭蕭蓬鬢老風塵
Tiêu tiêu bồng mấn (2) lão phong trần
暗裡偏驚物候新
Ám lí thiên kinh vật hậu tân
池草未闌千里夢
Trì thảo (3) vị lan thiên lí mộng
庭梅已換一年春
Đình mai dĩ hoán nhất niên xuân (4)
英雄心事荒馳騁
Anh hùng tâm sự hoang trì sính (5)
名利營場累笑顰
Danh lợi doanh trường lụy tiếu tần (6)
人事蕭條春自好
Nhân sự tiêu điều xuân tự hảo
團城城下一沾巾
Đoàn thành (7) thành hạ nhất triêm cân

Dịch nghĩa: Đêm xuân quán khách

Bời bời mái tóc bồng già cùng gió bụi
Trong thầm lặng riêng sợ khi nhìn thấy cảnh vật đổi mới
Ngoài nghìn dặm chưa tan giấc mộng "cỏ bờ ao"
Cây mai ở trước sân đã đổi một năm xuân
Tâm sự anh hùng đã nguội, không còn nghĩ đến chuyện dong ruổi
Trên trường danh lợi những kẻ lụy về vẻ khóc cười
Người buồn bã xuân riêng đẹp
Đứng dưới chân thành Đoàn, một mình, lệ thấm khăn

Dịch thơ: Đêm xuân quán khách

Già theo gió bụi tóc bời bời
Lòng vẫn sợ sau vật đổi dời
“Ao cỏ” chưa quên nghìn dặm mộng
Cây mai đã đổi một xuân thời
Anh hùng tâm sự quên dong ruổi
Danh lợi trường buôn lụy khóc cười
Buòn bã người thôi xuân vẫn đẹp
Dưới chân thành Lạng lệ thầm rơi.
                        Đỗ Đình Tuân
                           (dịch thơ)

Chú thích:

(1) Lữ thứ: Tác giả làm bài này khi lên Lạng Sơn để đón sứ thần nhà Thanh năm Giáp Tí (1805).
(2) Bồng mấn: Mái tóc rối bời như cỏ bồng.
(3) Trì thảo: Chữ lấy trong câu thơ của Tạ Linh Vận đời Tấn: "Trì đường sanh xuân thảo". Nguyên Tạ Linh Vận có người em học tên là Tạ Huệ Liên mới 10 tuổi đã biết làm thơ. Linh Vận thường tán thán và nói rằng khi ngồi cùng Huệ Liên thì thế nào cũng nghĩ
được thơ hay. Một hôm Linh Vận ngồi nơi bờ ao nghĩ thơ, nhưng không tìm ra tứ. Về nhà
nằm ngủ chiêm bao thấy Huệ Liên, thức dậy làm được câu "Trì đường sanh xuân thảo",
rất lấy làm đắc ý. Câu chuyện này truyền ra trở thành một giai thoại trong làng thơ.
(4) Đình mai: Dùng mai trong thơ, một là để tả xuân, hai là để ngụ ý ở nơi trạm để đợi sứ, mươn ý câu thơ Đường: "Chiết mai phùng dịch sứ". Nguyễn Du đến Lạng Sơn mùa Đông năm Quý Hợi (1804) và làm bài "Xuân tiêu" năm Giáp Tí (1805), nên mới nói là "Dĩ hoán nhất niên xuân".
(5) Trì sính: Trì là ngựa chạy mau. Sính cũng là ngựa chạy mau. Hai chữ ghép lại thành nghĩa là dong ruổi.
(6) Tiếu tần: "Tiếu" là cười. "Tần" là nhăn mày.
(7) Đoàn thành: Tên riêng của thành Lạng Sơn. Có tên như vậy vì góc Tây Bắc của thành
hình vòng tròn.

14/5/2014
Đỗ Đình Tuân

Một bài báo cũ




                        Một nét thơ CLB Côn Sơn

Cái biển CÂU LẠC BỘ CÔN SƠN nền xanh chữ trắng ở phần nửa Khu trạm xá  thị trấn Sao Đỏ, xuất hiện cách đây vừa tròn 10 tháng. Hôm treo cái biển ấy lên có pháo nổ giòn giã, có những lời chúc tụng, và cố nhiên ngay lập tức có thơ.
Trong nhiều nhiều những bài thơ đọc ngày hôm ấy, bây giờ tôi còn nhớ và “thủ” được một câu:
Vui chơi theo đạo người già
Cho đời thêm đẹp cho nhà thêm xuân
                          Nguyễn Văn Nhiên
Nhận thức ấy, mong muốn ấy quả thực là khó quên.
Từ đó CLB đi vào hoạt động: có bóng bàn, có cờ tướng, có tổ tôm… và dĩ nhiên cũng có cả thơ.
Những bài thơ ấy “không cao lương mĩ vị” gì mà toàn là những “cây nhà lá vườn” cả, nhưng dễ ăn, dễ nuốt giống y như những nắm rau tập tàng hái quanh vườn nhà đem nấu canh cua bắt ở đồng quê vậy. Không ít những câu thơ mang cái “mầu mỡ vườn nhà” khá chân thực:
Tuổi dẫu mấy mươi vẫn chửa già
Việc dân việc nước thảy tham gia
Tu tâm rèn chí nêu gương sáng
Mái tóc nay dù sương nắng pha

Tuổi dẫu mấy mươi chửa chịu lùi
Tăng gia sản xuất tạo niềm vui
Lẽ đời vốn sống truyền con cháu
Nhớ lúc gian nguy lúc ngọt bùi…
                           Trần Phao
Ngẫm nghĩ ư ? Mong muốn ư ? Hay là hiện thực ? Cũng khó mà phân định. Nhưng có lẽ nó là tất cả. Một bài khác, bài CHIẾC ĐỒNG HỒ của bác Nguyễn Văn Lập thì chỉ tả thực thôi. Có đến nhà bác mới thấy nó cũ kỹ lắm rồi, cổ lỗ sĩ lắm rồi. Nhưng vào thơ nó vẫn thế này:
Boong boong nghe vẳng ở bên tai
Mấy tiếng mấy giờ đúng chẳng sai
Dãy số nhỏ to vòng khép lại
Hai kim dài ngắn chạy đua hoài
Báo cho người lớn khi làm việc
Nhắc nhở em thơ lúc học bài
Lúc lắc đêm ngày không phút nghỉ
Vừa đo vừa đếm tháng năm dài
Dường như bài thơ không nói gì cả vậy mà đọc qua bài thơ ta cứ phải dừng lại để ngẫm ngợi ?
Muốn thoải mái , khề khà chén rượu vui đời thì xin mời hãy đến thăm VƯỜN XUÂN của bác Cao Đức Lương:
Trải qua một vụ đông tàn
Ngày xuân lại đến nắng tràn vườn xuân
Đồng tiền tươi nở trước sân
Đầu nhà cây quéo tầng tấng trổ bông
Mít non ríu rít như sung
Bám đầy cành cội hay không hỡi bà…
Thế rồi hai ông bà cùng bàn bạc phát triển cây, con để  cải thiện. Và đây là những câu kết khá thú vị của bài thơ:
Lại thêm thả một đàn gà
Phần thu hoạch trứng còn là sinh sôi
Đón xuân gà béo hoa tươi
Chén mừng ngồi ngẫm vui đời là đây.
Có thể nói đến thăm vườn xuân nhà bác Lương  ta chỉ thấy có hoa tươi người đẹp và tâm hồn thì thật là mãn nguyện. Nhưng khá bất ngờ là trường hợp CÂY TÁO của bác Trần Đình Thung:
Táo ơi sao mày sai thế
Mỗi cành đều nặng trĩu quả vàng ong ?
Những cô gái tuổi trăng tròn
Nhìn thấy táo muốn vặt liền
Nhưng nể ông lão làm vườn
Các cô bảo nhau bỏ tiền mua táo
Ăn táo rung động làm sao
Chua chua ngọt ngọt ê ẩm cả người
Rồi các cô khác lớn lên
Đẹp giòn như những quả táo trên cành.
Đọc bài thơ tôi thấy có rất nhiều thú vị. Nhờ có những rung động thơ chân thực mà cây táo và các cô gái đã hiện ra rất hồn nhiên. Chính sự ngạc nhiên hứng thú của bác Thung  dường như đã làm cho cây táo “trĩu quả” hơn và mỗi quả táo cũng như “vàng ong” thêm vậy. Cũng chỉ bằng có ba chữ “muốn vặt liền”  mà cái “thèm” táo của các cô gái thành hồn nhiên như trẻ con. Nhất là cái cảm giác của các cô gái khi ăn táo thì thật lạ:
Ăn  táo rung động làm sao
Chua chua ngọt ngọt ê ẩm cả người
Những chữ “rung động” và “ê ẩm” sử dụng ở đây là rất mới lạ. Nó như là những chữ tự nhiên xuất thần ùa đến nên vừa tự nhiên  lại vừa lạ vừa hay.
Mối quan hệ giữa ông lão với các cô gái cũng thật đẹp. “Bon trẻ” thì đã biết “tự kiềm chế” không “vặt liền” trộm táo của ông già. Chúng mua bán rất song phẳng. Còn ông già ngược lại cùng nhìn “bọn trẻ” với một con mắt đầy tin yêu và gửi gắm rất nhiều hy vọng:
Rồi các cô khác lớn lên
Đẹp giòn như những quả táo trên cành.
Chỉ vài nét đó thôi nhưng phải chăng đó là cái “Đạo người già” đã được các cụ cảm nhận và tự mình biểu hiện bằng thơ ca vậy ?
               (Bài đăng báo HẢI DƯƠNG thứ bảy ngày 8/10/1994)
16/5/2014
Đỗ Đình Tuân

Thứ Năm, 15 tháng 5, 2014

Dịch thơ Nguyễn Du 23



Bài 22
 
Quỷ Môn
鬼門道中
Quỷ Môn (1) đạo trung
鬼門石徑出雲根
Quỷ môn thạch kính xuất vân côn (căn)
征客南歸欲斷魂
Chinh khách nam quy dục đoạn hồn
樹樹東風吹送馬
Thụ thụ đông phong xuy tống mã
山山落月夜啼猿
Sơn sơn lạc nguyệt dạ đề vôn (viên)
中旬老態逢人懶
Trung tuần lão thái (2) phùng nhân lãn
一路寒威仗酒溫
Nhất lộ hàn uy trượng tửu ôn
山塢何家大貪睡
Sơn ổ hà gia đại tham thụy
日高猶自掩柴門
Nhật cao do tự yểm sài môn

Dịch nghĩa: Trên đường qua Quỷ Môn Quan

Đường đá ở Quỷ Môn từ chân mây mà ra
Hành khách về nam buồn muốn đứt tâm hồn
Gió đông qua những hàng cây, thổi vào ngựa đưa tiễn
Trăng lặn xuống sau dãy núi, đêm vượn kêu
Tuổi mới trung tuần mà đã có vẻ già, lười gặp người (vì ngại việc thù tiếp)
Suốt con đường giá lạnh, nhờ rượu được hơi ấm
Trong xóm núi, nhà ai ham ngủ quá
Mặt trời đã lên cao mà cửa củi còn đóng kín.

Dịch thơ: Trên đường qua Quỷ Môn Quan

Đường đá Quỷ Môn mọc tự mây
Về nam hành khách muốn hồn bay
Hàng cây nổi gió ngựa đưa tiễn
Dãy núi trăng nghiêng vượn hót bầy
Tuổi mới trung tuần chào khách ngại
Dọc con đường rét ấm men cay
Nhà ai xóm núi ham mê ngủ
Nắng đã lên cao cửa vẫn cài ?
                      Đỗ Đình Tuân
                         (dịch thơ)


Chú thích:

(1) Quỷ Môn Quan: Ở phía nam xã Chi Lăng. Đường hẹp, núi dốc, hình thế hiểm trở.
Có núi trông như đầu quỷ, ải do đó mà mệnh danh. Người xưa có câu: “Quỷ Môn Quan! Quỷ Môn Quan!, Thập nhân khứ, nhất nhân hoàn!" (Ải Quỷ Môn! Ải Quỷ Môn! Mười người đi, một người về!”).
(2) Trung tuần: Tiên Điền làm bài này lúc lên trấn Nam Quan nghênh tiếp sứ Tàu sang phong sắc cho vua Gia Long, xong sứ mệnh trở về kinh. Năm ấy là năm Giáp Tí (1804), tác giả mới 40 tuổi nhưng đầu đã bạc trắng (đầu cụ bạc từ lúc lánh nạn ở Quỳnh Côi).

13/5/2014
Đỗ Đình Tuân

 

Đăng Ký Học

Thông tin liên hệ

Hotline: 0916 955 085 – 093 2269 135

Địa chỉ:213 Cao Đạt,P1,Q5,TP HCM

Hình Ảnh