Hiển thị các bài đăng có nhãn BÌNH THƠ. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn BÌNH THƠ. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Ba, 13 tháng 5, 2014

TÌNH YÊU KHÔNG CÓ TUỔI

Song Thu: Hình như mình hợp gu văn thơ với Hồ Nhật Thành thì phải. Bởi vì ngay lần đầu tiên vào blog của bạn ấy, mình đã thấy thích  " Chuyện tình của nàng và hắn" rồi rinh về trang mình. Đến hôm nay, vào blog Tan_262, đọc bài "Tuổi chớm già" của lão Tan, mình lại bắt gặp lời com này của Hồ Nhật Thành và cũng thích luôn nên lại xin nó mang về đây khoe cùng mọi người.
Lý do mà Hồ Nhật Thành com bài này vào bài: " Tuổi chớm già" của Tan_262 là muốn khuyên Tan đừng thấy mình già sớm thế. Và tôi mang bài này về đây cũng muốn nói với các bạn của tôi rằng chúng ta hãy cứ sống vui vẻ trẻ trung, hãy cứ yêu đến hết mình dù cho tuổi tác có cao bao nhiêu đi nữa nha!

 Vài điều cảm nhận về bài thơ:
 Thơ tình tuổi sáu mươi của Tú Tâm 

Sáu mươi tớ mới chớm già
Lưỡi lam nhác sắm, thế là dài râu
Thịt không mỗi sợi mỗi xâu
Chỉ mong mỗi sợi một câu thơ tình.

Yêu cho sướng, sướng rung rinh
Vợ ghen vặc lại: Sao mình không yêu?
Ti vi xem sớm, xem chiều
Bao nhiêu người đẹp Thuý Kiều cũng thua
Đánh chết nết cũng  không chừa
Tớ không thích kiểu vừa vừa trong yêu.
Đã yêu thì chết cũng liều
Xưa nay cũ rích những điều vợ ghen.

Trời ban nhan sắc cho em
Là ban luôn cả khát thèm cho anh
Từ trẻ trai đến lão thành
Mộng mơ chi cũng chỉ dành cho yêu.

Râu dài, dài đến bao nhiêu
Cũng không làm tớ già đều được đâu!


Hai câu thơ mở đầu là lời giới thiệu và cũng là lời thanh minh vừa hóm hỉnh, vừa chân thành. Tớ sáu mươi rồi đấy, sáu mươi là cái tuổi bắt đầu lên lão! Thế nhưng tớ mới chớm già thôi nhé. Chẳng qua tớ không cạo râu nên râu nó mới dài ( ai mà chẳng thế?) Lên lão rồi, có được một bộ râu là hành diện lắm đấy. Vì nó làm nên cái duyên già mà! Người xưa nói: “Một sợi râu, một xâu thịt” đấy là gì? Nhưng tớ không ước xâu thịt! Tớ ước “mỗi sợi một câu thơ tình” cơ! Thế hoá ra càng già, râu càng nhiều, càng dài thì thơ tình càng dào dạt! Thơ tình dào dạt bởi trong lòng tớ còn trỗi dậy những đợt sóng tình yêu mạnh mẽ. Có yêu, tâm hồn ta mới thăng hoa cảm xúc. Có yêu, ta mới thấy cuộc sống quanh ta đẹp bội phần. Có yêu, ta mới sống NGƯỜI hơn, vì ta biết sống thế nào cho đẹp. Yêu cho sướng, sướng rung rinh! Vậy thì cứ yêu! Bởi ai lại “hoãn sự sung sướng “ làm gì? Và yêu như thế nào mới sướng chứ?
Đánh chết nết cũng không chừa
Tớ không thích kiểu vừa vừa trong yêu.

Đúng thế! Ca dao xưa có câu:
“ Cơm ăn mỗi bữa mỗi lưng
Nước uống cầm chừng để dạ thương em”
Ta có thể ăn cầm chừng, có thể uống dè dặt. Nhưng yêu mà cầm chừng, mà dè dặt thì không phải là yêu! Đã yêu là phải yêu hết mình, yêu đến cuồng si, điên dại! Dù có phải chết cũng cam lòng! Ai đó đã ví “đôi ta như sóng và bờ”. Sóng cứ trườn mãi, trườn mãi lên bờ mà không bao giờ chán, không bao giờ ngừng! Còn bờ, sung sướng, hạnh phúc vì được sóng ve vuốt! Mỗi lần sóng tràn lên, bờ lại càng như trẻ lại, mới mẻ, tinh khôi! Vậy đấy!

Đang dùng đại từ “tớ” với sắc thái đùa vui như thế, bỗng mắt anh dịu dàng trong cái nhìn tình tứ đầy âu yếm khi nói với em:
“ Trời ban nhan sắc cho em
Là ban luôn cả khát thèm cho anh”

Em biết không em? Nhan sắc của em là món quà mà thượng đế ban tặng. Vậy anh khát thèm em, anh si mê điên đảo trước sắc đẹp của em, đó cũng là món quà anh nhận được từ thượng đế!
“ Trời đã sinh ra em
Để mà xinh mà đẹp
Trời đã sinh ra anh
Để yêu em tha thiết”
Trước đây tôi cứ ngỡ rằng, tình yêu là đặc quyền của tuổi trẻ. Khi có gia đình rồi, khi có tuổi rồi, cảm xúc yêu chắc cũng cạn khô. Bởi thế cho nên
“ trẻ không yêu, già ân hận”. Hoá ra tình yêu không có tuổi!
“ Từ trẻ trai đến lão thành
Mộng mơ chi cũng để dành cho yêu”
Vâng! Thế thì tình yêu là bất tử! Tuổi tác có nhiều thêm, râu tóc dù đã bạc, và hàm răng kia cái rụng cái long, nhưng tình yêu thì trẻ mãi:
“ Râu dài, dài đến bao nhiêu
Cũng không làm tớ già đều được đâu”
Đọc bài thơ, ta nhìn thấy một đôi mắt lấp lánh niềm vui, nhìn thấy một nụ cười hóm hỉnh, nhưng cảm nhận rõ nhất là một trái tim đập hối hả vì tình yêu nồng nàn, đắm say, đầy khao khát!

                      Hồ Nhật Thành
                        Song Thu sưu tầm, nguồn blogTan_262 

Chủ Nhật, 20 tháng 4, 2014

VỀ MỘT SỐ BÀI THƠ CỦA CLB THƠ ĐƯỜNG PHẢ LẠI

      Lê Trọng Hồng, một cây bút sắc sảo của câu lạc bộ Côn Sơn và CLB thơ đường Phả Lại đã có lời bình vê một số bài thư của các tác giả thơ đường, tôi xin trân trọng giới thiệu bài viết của ông với độc giả Tri Ân Cuộc Đời:
 
 
VŨNG TẦU (Nghinh phong Vọng nguyệt đếm sao rơi)

(Bùi Viết Thinh) 

Vũng Tầu đẹp lắm Vũng Tầu ơi
Rực lửa giàn khoan giữa biển khơi
Khách sạn lâu đài ngày nhộn nhịp
Vũ trường quán hát tối vui chơi
Đỉnh đồi tượng Chúa dang tay đứng
Chân núi Thích Ca xếp gối ngồi
Bãi tắm trước sau mừng đón khách
Nghinh phong Vọng nguyệt đếm sao rơi.

Vũng tàu là một bài thơ Đường luật vịnh cảnh. Đã là vịnh thì thơ cần nói nhiều về cảnh, tuy nhiên thơ Đường luật lại chỉ cho thực có một cặp câu mà thôi. Chính vì vậy mà tác giả đã cố gắng đưa các thông tin về cảnh vào chung với các cặp câu khác để các cặp câu này vừa mang chức năng của nó vừa gánh thêm chức năng cho phần thực và phần thực đã hiện ra khá nhiều hình ảnh, đó là “giàn khoan rực lửa, khách sạn, lâu đài, vũ trường, quán hát” và xa hơn nữa là “tượng chúa trên đồi, Thích Ca dưới núi” cũng hòa vào cuộc sống nhiều màu sắc hôm nay.
Một trong những nét độc đáo của thơ Đường luật đó là ý tại ngôn ngoại do đó mà từ cảnh thấy tình. Cái say sưa lao động, cái khí thế lao động được ví với ngọn lửa rực cháy nơi giàn khoan giữa biển, nhưng cuộc sống tươi mới lại hiện lên với nhiều nơi vui chơi thoải mái rất cần cho những người lao động hết mình trong các giờ nghỉ của họ để rồi mai tới lại tiếp tục lao vào công việc của đất nước giao cho.
Bài thơ còn đưa thêm hình ảnh tượng chúa và tượng phật vào khung cảnh thơ. Nói đến khung cảnh thơ hoàn toàn khác với khung cảnh thực ở chỗ có cảnh mà không cần đưa vào. Ở đây muốn nói rằng có cảnh là điều kiện, còn đưa cảnh ấy vào lại là ngụ ý của tác giả. Điều chúng ta thấy là chuyện ngoài đời vốn là vật chất đã sẵn, chuyện bên trong cùng với niềm tin vốn có của con người vào đạo, đó là đời sống về tinh thần cũng được đề cao.
Cho dù Nghinh Phong, Vọng Nguyệt là tên gọi của các địa điểm ở Vũng Tầu những ở đây cách chơi mới mẻ đó là chọn đưa nó thành những thú vui mà những nhà thơ vẫn từng ao ước. Còn gì thú vị hơn cái thú nhàn tản của con người mỗi khi được thỏa mãn. Lẽ nào không tự cho mình được sống thoải mái ngồi đón gió và ngắm sao trời nghĩ về những vần thơ trong những ngày mai tới. Câu thơ có cái kết rất mở, dù chẳng nói gì về việc yêu ghét thêm nữa mà ta vẫn thấy cái sự sung sướng của nhà thơ và vì thế ta mới hiểu vì sao ngay từ câu khai đề tác giả đã hào hứng với lời khen “đẹp lắm”

NHỚ
 
(Đinh Công Cường)
Nhớ thời đánh Mỹ vượt Trường Sơn
Đạn réo bom rơi chí chẳng sờn
Chân đạp mây bay leo dốc đứng
Tóc vờn gió lộng bước đường trơn
Xông pha đuổi giặc trên đường Chín
Truy kích vây thù dưới Tà Cơn
Đất nước hoà bình giờ hạnh phúc
Nhớ thời đánh Mỹ vượt Trường sơn.


Đây là một bài thơ theo thể Thủ vĩ ngâm khá điển hình ôn lại những kỷ niệm thời kháng chiến chống Mỹ. Đặc trưng của thể thủ vĩ ngâm là muốn nhấn mạnh một chủ đề nào đó bằng cách lặp lại để gieo vào lòng người đọc những điều mình muốn nói.
Phần thực của bài thơ được tiếp nối ngay từ câu thừa đề để có thêm chất liệu nói về những nguy hiểm gian nan trên đường đi đánh giặc, thậm chí còn kéo dài đan xen vào phần luận để lột tả cái khó khăn nguy hiểm của bom đạn giặc, cái khó khăn cản trở của hoàn cảnh tự nhiên. Đây là những cảnh thực nhất về chiến tranh thời đó. Đặc biệt hơn là tác giả còn cho người đọc biết cả cái địa điểm cụ thể mình muốn nói đến trong cuộc chiến.
Cặp luận áp dụng theo kiểu lưu thủy đối để kéo tràn từ câu trước sang câu sau hai chiến lược của quân đội ta thời đó. Đó là “đuổi” để dồn lại và “vây” chặt không cho thoát, gợi cho ta nhớ tới chiến thuật “đánh lấn” thời giải phóng Điện Biên và chiến thuật “vây ép” trong những năm đánh Mỹ. Nhiều hơn thế là các cặp động từ đối chọi, cùng với cách ngắt nhịp 4/3 mạch lạc đã đưa bài thơ vượt qua rào cản “buồn man mác” vốn dĩ của thơ Đường luật để đến với không khí sôi động hơn. Kết của bài thơ, thêm một lần nữa nói về sự kiên cường, dũng cảm cùng với ý quyết thắng của cả dân tộc trong cuộc kháng chiến chống Mỹ và khảng định kết quả to lớn không gì sánh nổi đó là hòa bình hạnh phúc.

Thứ Bảy, 19 tháng 4, 2014

Một số cảm nhận về tập thơ "Đáy mắt" của Nhà thơ Nguyễn Minh Thuộc

(trình bày trong buổi tọa đàm về tập thơ này tại Công ty Văn hóa Đất Việt)

Cảm nhận ban đầu khi mới đọc cả 47 bài trong tập thơ, tôi không thích, vì thơ cụt lủn, khô khốc mặc dầu một số bài thơ có ý nghĩa sâu sắc. Nhưng hiểu rằng phê phán tác phẩm bằng cảm tính thì dễ, còn tìm để hiểu được cái hay thì khó, nên tôi đọc nghiêm túc và trải qua những nhận thức và xúc cảm như sau:

1.Đối chiếu với những tiêu chuẩn bài thơ hay thu nhận qua lời giảng của các thầy:

Thơ nói lên tâm tình, là tiếng lòng của nhà thơ thông qua những hình ảnh, có vần có nhịp điệu tiết tấu. Nó lay động trái tim của độc giả, không phải bằng cái gì thật cụ thể mà là mang lại chút gì đó khiến người đọc phải trăn trở, hoặc có cái gì đó   nhớ mong, những hoài niệm, khát khao về tình yêu và cuộc sống tốt đẹp trên cõi đời này, khát vọng được giao hòa trong cái tình người thật mênh mông cao cả...Để xem thơ
Đáy mắt có phải là thơ hay không, tôi đã thử trả lời các câu hỏi sau đây:

a. Có tứ mới, tứ hay không? có hàm ý triết lý về nhân sinh về xã hội không? Có, tất cả các bài thơ trong tập thơ của anh Minh Thuộc đều có tứ hay, sâu sắc. Tác giả rất chú ý sử dụng nghệ thuật ẩn dụ.
b. Truyền được xúc cảm, tác động lên cuộc sống, suy nghĩ của người đọc không? Có, tất cả 47 bài đều làm được điều đó.
c. Có cấu tứ đẹp (theo các thể loại thơ, lục bát, đường thi...với việc sử dụng ngôn từ chọn lọc, mang tính thẩm mỹ) không? Không
d. Có hình ảnh không? Có, nhưng chỉ vừa phải. Có giai điệu âm nhạc không? hầu như không, hoặc một số ít có thì bình thường, không hay. Người ta thường ca ngợi "Thi trung hữu hoạ, thi trung hữu nhạc" - "Trong thơ có hoạ, trong thơ có nhạc". Ở thơ Đáy mắt dường như không có nhạc, họa.

2. Cảm nhận cụ thể một số bài thơ:

a. Tôi thích những bài thơ sau (chỉ là ví dụ, không có nghĩa chỉ thích những bài này):

+ Nhộngtrang 61 Bị luộc/Lột trần/Vẫn nhả tơ: khái quát thân phận và thái độ sống tích cực của người quân tử hay nói chung - của con người chân chính. Tuy nhiên, chi li ra thì từ ngữ có thể chưa thật chính xác, hoặc phải hiểu theo nghĩa thoáng hơn. Con nhộng bị luộc lên có còn nhả tơ đâu mà là người ta rút sợi tơ từ nó (ươm tơ). Nhả tơ ở cung đoạn trước đó cơ ạ (con tằm nó nhả ra tơ). Nên chăng thay lại là Bị luộc/Lột trần/Vẫn vương tơ

+ Hiện tượng trang 49 Dòng nước xoáy/Gỗ to không nuốt nổi. Từ hiện tượng thực tế, đọc bài thơ này ta có thể liên tưởng theo hai tình huống:
Vâng thứ nhất, đại trượng phu, người có bản lĩnh thì không dễ gì bị  xoáy vào vòng xoáy (sa ngã) của cuộc đời, giữ được cho mình phẩm hạnh trong bất cứ hoàn cảnh nào.
Thứ hai, nếu vòng xoáy tượng trưng cho sự cao cả mà gỗ to hàm ý là kẻ tiểu nhân, là kẻ ác...thì vòng xoáy của chính nghĩa chưa đủ nuốt nổi hắn. Phải chăng lúc này phải chờ đợi ... ví như tại ngã ba sông ẩn sâu dưới lòng nước, phải có một miệng hang nào đó ngày đêm  hút  nước rất mạnh,  tạo  nên  dòng  nước xoáy dữ dội hơn vâng hay cách mạng đủ chín mùi mới mong quật ngã kẻ thù.

+ Vịt trang 31: Một con ran ran/Cả đàn cạc cạc: Đọc xong tôi thuộc ngay. Nó lập tức thường trú trong tiềm thức, nhắc nhở mình cần tránh thói xu nịnh vào hùa a dua. Nhưng cũng nói vui mà là nói thật, đôi khi ta lại cần cái "ran ran" của một ai đó để ta sẵn sàng "cạc cạc" vì một điều tốt đẹp cần phải hưởng ứng, ủng hộ. Nghĩa là có hai mặt của cùng một vấn đề.

+Nhân quan trang 79: Mắt mở mà chưa mở mắt Từ hiện tượng gắng nhìn ra cái bản chất sâu xa. Nhìn thấy mà thực là không thấy bởi người ta thường phán đoán bề ngoài hơn là thực chất. Điều này đúng cho ngay cái việc tôi đọc thơ Đáy mắt vậy.

+Những ngôi đền trang 101: Bài này tôi rất thích. Nó lại đúng là bài thơ duy nhất còn mang dáng dấp "thơ tự do kiểu truyền thống", nghĩa là có vần có điệu, có tứ hay, gây xúc động về lòng dân đối với Võ Đại tướng.

+ Khi đọc bài Mộ liệt sĩ trang 13: Cùng gương mặt/Hình chữ nhật/Ngôi sao đều một hướng, thoạt đầu tôi nhớ ngay đến bài thơ lục bát "Nghĩa trang Trường Sơn" của bạn thơ Hoàng Thị Ngọc Hồi
Nắng chiều bỏng rát Trường Sơn
Nghĩa trang trùng điệp trắng non sao vàng
Các anh ơi vẫn hàng hàng
Chưa về với mẹ nhỡ nhàng nằm đây...
tôi thấy thơ truyền thống này gây xúc động hơn. Nhưng đọc đi đọc lại bài của nhà thơ Minh Thuộc, tôi có xúc cảm theo kiểu khác. Bài thơ có 11 từ mộc mạc thôi nhưng ám ảnh, khắc họa thật rõ nét về Mộ liệt sỹ, và trước mắt ta hiện lên toàn cảnh các dãy mộ liệt sĩ giống nhau xếp hàng hàng lớp lớp tại các nghĩa trang trên toàn quốc, vâng, các dãy mộ ấy đông đảo quá, (theo số liệu đăng trên trang điện tử CP.vn thì đã qui tập 939462 hài cốt liệt sĩ tại 3077 nghĩa trang trên toàn quốc, và còn thiếu khoảng 200000 nữa). Từ đó cảm nhận rõ hơn cái mất mát, mất mát nhiều quá, đau sót, đau sót quá  từ chiến tranh, và họ đấy, các chiến sĩ đã nằm xuống nhưng hình như họ vẫn còn đó, vẫn cùng đội trên đầu ngôi sao quay về cùng một hướng, như vẫn đứng trong đội ngũ điệp trùng nhắc nhở ta hãy sống cho xứng đáng, hãy uống nước nhớ nguồn.

+ Hai đầu trang 71 Cầu/Không thể một đầu: Đã nói đến CẦU thì phải có cả hai đầu, hai phía, không thể chỉ một. Đó là sự bình đẳng trong các mối quan hệ, từ tình yêu nam nữ (không thể chỉ mình chàng chạy theo nàng  như theo một cái bóng. Bày tỏ tình cảm có thể đàn ông chủ động, nhưng cốt yếu hai người cùng phải có nhu cầu yêu thương, đều cần đến nhau) cho tới bè bạn, sếp với nhân viên, chính phủ với dân...hai bên đều phải có yêu cầu lẫn nhau, đều cần đến nhau, có trách nhiệm, quan tâm đến nhau...

b. Thắc mắc
 Bài Cá quả trang 53: Nhảy lên bờ/Kiến đốt/Lao xuống nước chia mồi. Nghĩa đen là con cá mẹ chịu đau giả chết lên bờ để đàn kiến bu vào đốt, sau đó nhảy xuống tạo mồi kiến nổi lềnh bềnh giúp đàn cá con có mồi ăn. (theo một câu chuyện kể cho bé nghe "Con cá thông minh" đăng trong maxreading.com/sach-hay/chuyen.../con-ca-thong-minh-13959.html‎ ). Tôi đã đọc truyện nên mới rõ ngọn ngành thế, chứ chỉ đọc bài thơ thì chưa chắc thấu hiểu ý tứ của nó.Thế ở đây có phải tác giả đã dùng ý này để gói vào trong mấy từ vắn tắt nhằm hàm ý ca ngợi sự thông minh và đức hi sinh của cha mẹ đối với con cái nói riêng và suy rộng ra với quan hệ khác không? Như thế thì ta sẽ đánh giá thế nào về "tư cách" của bài thơ "Cá quả"? Nhưng nếu có sự trùng lặp ngẫu nhiên thì tôi thành thực xin lỗi tác giả, tôi hơi nặng lời.

3. Liên tưởngđến quyển sưu tầm lời hay ý đẹp, ca dao tục ngữ dân gian. Trong sách đó cũng có một số câu trùng lắp ý với một vài bài thơ trong Đáy mắt. Có lần, một cô bạn thơ hỏi tôi: "Chị ơi, em nghĩ ra những câu có tính chất triết lý, nhắc nhở bản thân em, và chắc cũng có ích cho người khác. Nhưng em không biết sẽ đặt đầu đề cho chúng như thế nào, và gọi là gì, chúng lại không phải là những bài thơ...". Tôi đã trả lời: "Chị không rõ lắm, nhưng theo chị hiểu, trong dân gian có nhiều câu ca dao tục ngữ truyền từ đời này sang đời khác. Cũng lại có những câu danh ngôn của các bậc tiến bối, kể cả của người nước ngoài. Người ta đã từng tập hợp chọn lọc đưa in trên lịch, in thành sách. Nếu em thích thì em có thể cứ đọc lên trình bày cho bạn bè nghe khi sinh hoạt thơ ở Câu lạc bộ ấy, hoặc đưa in ở báo, ở tạp chí nào đó. Biết đâu sau này, những câu triết lý của em lại chẳng được đưa vào sách và người ta sẽ giới thiệu đó là của tác giả Minh Hằng".
Nay đọc thơ của nhà thơ Minh Thuộc, tôi trộm nghĩ cô bạn tôi hoàn toàn có thể cho ra đời một tác phẩm thơ tương tự. Đương nhiên tôi không có ý so sánh thơ của cô ấy và của nhà thơ, cũng chưa dám bình luận hay dở gì cả.
Thiết nghĩ nếu những bài thơ trong "Đáy mắt" chẳng hạn được xếp vào trong quyển sách kể trên thì chưa chắc được người đọc chú ý (vì quyển sách in nhiều câu quá, từ nhiều nguồn, sắp xếp lẫn lộn). Nhưng đặt trong bối cảnh là in riêng tập thơ dạng mới thế này thì có thể xảy ra hai khả năng: một là đâu đó có thể bị phản ứng vì sự thô ráp quá kiệm lời của thơ, khiến hạn chế số lượng độc giả. Hai là (chẳng hạn như tôi), càng đọc càng ngẫm nghĩ thì tôi càng thích và nhớ lâu, rồi từ từ cũng chẳng có nhu cầu phải đèm đẹp, mượt mà gì nữa, mà thơ vẫn cứ ám ảnh, đến mức có đêm thức trắng luôn chỉ để đọc và ngẫm nghĩ....

4. Đánh giá lại một cách tổng quan
a. Ưu điểm
Thơ "Đáy mắt" dễ nhớ vì nó cực ngắn (dài mà hay thì biết là hay chứ cũng không nhớ được). Các bài thơ đã tác động sâu sắc đến nghĩ suy của người đọc mặc dù có thể ý thơ vẫn là điều mà nhiều người đã biết. Thơ thường để ngỏ tùy người đọc hiểu thế nào là tùy họ, theo cách nghĩ khác nhau. Thực ra điều này cũng có trong thơ truyền thống, "ý tại ngôn ngoại", có điều thơ truyền thống lay động tâm hồn độc giả một cách có nghệ thuật còn thơ trong "Đáy mắt" thì độc giả phải chìm ngập vào suy tư logic và tự cảm nhận, tự rung động bởi những ý nghĩa (tứ) sâu sắc của bài thơ.
Càng đọc kĩ, đọc nhiều lần tập thơ này, tôi có cảm giác bớt khó chịu, bớt chê bai, và chuyển dần sang thích thú hơn, nhưng chưa phải thích hẳn. Lí do chính là ở chỗ

b. Nhược điểm:
Cái đẹp về hình thức của lời thơ thì quá hạn chế (hình ảnh, âm điệu, sự mượt mà của từ ngữ, của cả câu...).
Tôi băn khoăn tự hỏi: Nếu coi thơ này là hay, là sâu sắc, là tuyệt mỹ,...thì có phải xem lại "lí thuyết" nhận biết thơ hay không? 
Nhưng tôi cũng lại thừ người ra khi đọc được những dòng sau đây của nhà thơ Trần Nhuận Minh...tôi xin phép đọc lại để quí vị nghe cùng:

Khi còn sinh thời, nhà thơ Xuân Diệu hay dùng ba chữ rất đáng nhớ là "vặt lông vịt". Theo Xuân Diệu, con vịt béo hay gầy không phải ở bộ lông. Tìm thơ là tìm ở thịt con vịt chứ không phải ở bộ lông. Thịt con vịt theo Xuân Diệu là thực tế, là đời sống trong thơ, với tiêu chuẩn chân chân chân, thật thật thật. Còn khái niệm "bộ lông vịt" mà Xuân Diệu nói, đó chính là ngôn ngữ, hình ảnh, tiết tấu, dù 3 thứ đó ở trong thơ đều vô cùng quan trọng. Xuân Diệu lấy ví dụ khi dịch thơ ra tiếng nước ngoài, "bộ lông vịt" kia bị vặt đi, chỉ còn thịt là cái tứ, cái chất sống. Tôi nghĩ là ông có lý. Ví dụ như bài thơ bốn câu của Trần Đăng Khoa, bài Đất:
Đất muốn nói điều chi thế
Mà không nói được với người
Mà rạo rực trong quả ngọt
Mà rưng rưng màu lá tươi…
Nhà thơ Nga Gogol đã dịch ra tiếng Nga, xuất bản tại Nga. Hào Minh đã dịch thẳng từ tiếng Nga trở về tiếng Việt, bài thơ thứ 2 này như sau, Đất:
Lời của đất ngắn gọn
Thay cho lời, chỉ có
Hoa tươi
Quả ngọt.
Vậy lao động thơ, tâm đắc chữ... vân vân..., trong những rạo rực, rưng rưng… rồi đến cái tiết tấu của câu thơ lục ngôn, đều đã bay tiệt, chỉ còn lại cái tứ, cái ý tưởng. Cái đó mới là cái cốt tuỷ của thơ, cái bản quyền của thơ, cái nội sinh của thơ mà thôi. 
Thơ là sự tương ứng giữa ý và lời. Lời và ý song song nhau, lời hết ý cũng hết là thơ trung bình. Lời hết mà ý vẫn còn, các cụ xưa gọi là dư ba, ý tràn ra cả ngoài lời là thơ hay, Ý đã hết rồi mà lời vẫn còn là thơ dở. Còn thơ rất hay là bất cứ lúc nào, ở độ tuổi nào, trong hoàn cảnh nào, đọc cũng thấy thấm, và càng ngẫm nghĩ, càng thấy có một điều gì đó còn ở phía trước...

Thơ thể hiện tư tưởng vút lên từ cuộc đời bình thường là thơ hay (Nhà thơ Vũ Quần Phương)

Và sau khi thừ người ra về những điều trên, tôi ngậm ngùi tự hỏi: Mình có khe khắt với thơ "Đáy mắt" không đấy, hay là mình chưa thật hiểu về cái hay cái mới của loại "thơ nén lời" này, hay là ....
Thôi thì kiểu gì tôi cũng đã bộc bạch hết, tôi nghĩ sao nói vậy, rất trung thực không khen lấy được, cũng không chê lấy được. Nhưng dù sao vì hiểu biết trình độ còn hạn chế, nên mong được tác giả và các nhà văn, nhà thơ thông cảm. Xin cảm ơn nhà thơ Nguyễn Minh Thuộc. Xin cảm ơn sự lắng nghe của quí vị.

Hà Nội 30/3/2014
Bùi Thị Kim Thư
 

Thứ Tư, 12 tháng 2, 2014

LỜI BÌNH CỦA NHÀ THƠ THANH-MAI VỀ BÀI THƠ "CẢM XÚC NHA TRANG" CỦA THANH DẠ

Một bài thơ được treo ở “Quán thơ Hải Dương”
trong Ngày thơ Văn Miếu-Quốc Tử Giám Hà Nội
(ngày15 tháng Giêng Giáp Ngọ):


Ta đắm mình trong trời biển Nha Trang/
Trong phấp phỏng phía Nhà Giàn *sóng dữ
Trong nỗi nhớ Chế Lan Viên một thuở :
“Có hay đâu hang Pắc-bó gió lùa” !

Ta ôm nhau giỡn sóng , nô đùa...
Như có lỗi với người đang cống hiến
Đang đối mặt với cuồng phong,nguy biến
Giữ vuông tròn trời,biển để ta yêu…


6-2011 T. D


*Nhà Giàn DK1 nơi gác biển của Hải Quân VN tại Trường Sa
**Chế Lan Viên ngày trước đến Nha trang đã từng viết: “Tôi đến Nha Trang ngắm trời,biển đẹp .Có hay đâu Hang Pắc-bó gió lùa…”(lúc ấy Bác Hồ đang ở Păc-bó dịch Lịch sử Đảng CS Liên –Xô: Sáng ra bờ suối,tối vào hang.Cháo bẹ,rau măng vẫn sẵn sàng . Bàn đá chông chênh dịch sử đảng . Cuộc đời cách mạng thật là sang )

 
Bài thơ dòng tám chữ vẻn vẹn chỉ gồm hai khổ.
Khổ trên thể hiện hai mạch cảm xúc trên khung thời gian hiện tại và quá khứ. Hiện tại là nỗi “phấp phỏng” lo âu cho người lính Hải quân Trường Sa gác Nhà Giàn DK1 vì sóng dữ của biển và cả của người ngày đêm đe dọa. Quá khứ là từ câu thơ của Chế Lan Viên “Có hay đâu hang Pắc-bó gió lùa” để nhớ tới Bác Hồ âu lo cho vận mệnh dân tộc trong cảnh sống thiếu thốn: “Giường lãnh tụ kê hai hàng đá ghép/Mảnh áo chàm Bác mặc quá đơn sơ”. Cả hai mạch cảm xúc đều bộc lộ nỗi lòng bất an của nhà thơ về người lính biển, về vị lãnh tụ hy sinh vì đất nước, vì mọi người, trong đó có nhà thơ.
Chỉ như thế đã đủ để thấy được nỗi lòng nhà thơ đối với những người hy sinh vì đất nước rồi!
Bài thơ tiếp nối khổ thứ hai nâng nỗi lòng nhà thơ lên cấp độ cao hơn: “Như có lỗi với người đang cống hiến” khi nhà thơ vui đùa tắm biển: Một lời tự kiểm đối với những người đã hy sinh và cũng là sự bộc lộ chân thành của con người văn hóa – đó là nhân cách sống biết người và biết mình trong mối quan hệ kỷ nhân và tha nhân.
Với tính chất “mở” của thi ca, bài thơ gợi người đọc “đi xa” hơn: Hãy nhận diện kẻ thờ ơ, vô cảm đối với cuộc đời; hơn nữa, hãy nhìn rõ mặt kẻ vong ơn, bạc nghĩa đã và đang giơ súng lục bắn vào quá khứ…
Cảm ơn Thanh Dạ về bài thơ với tầm ý tưởng và với nghệ thuật thể hiện đáng kính nể!

 

Đăng Ký Học

Thông tin liên hệ

Hotline: 0916 955 085 – 093 2269 135

Địa chỉ:213 Cao Đạt,P1,Q5,TP HCM

Hình Ảnh