Hiển thị các bài đăng có nhãn Nghệ thuật hát chèo. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Nghệ thuật hát chèo. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Tư, 10 tháng 9, 2014

Hát chèo - Điệu du xuân

Hát chèo - Điệu du xuân



Làn điệu chèo trong vở chèo dựa theo tích cổ Tấm Cám của tác giả Lưu Quang Thuận


Vở chèo Quan Âm Thị Kính

Vở chèo Quan Âm Thị Kính

Ngày xửa ngày xưa, có một người trải đã nhiều kiếp, kiếp nào từ bé đến lớn cũng giữ mình đức hạnh và thành bậc chân tu. Cứ luân hồi chuyển kiếp như vậy liên tiếp đến 9 lần, nhưng chưa kiếp nào được thành Phật. Đến kiếp thứ 10, Đức Thích Ca muốn thử lòng, bắt vào đầu thai làm con gái một nhà họ Mãng ở nước Cao Ly.

Họ Mãng đặt tên nàng là Thị Kính. Lớn lên, nàng tài sắc nết na lại hiếu thảo hết lòng. Khi đến tuổi lấy chồng, nàng được bố mẹ gả cho thư sinh Sùng Thiện Sĩ. Sùng Thiện Sĩ rất đẹp trai, chăm học. Hai vợ chồng thật là trai tài gái sắc ăn ở với nhau rất mực kính ái và hòa thuận. Một đêm, Thiện Sĩ ngồi đọc sách, Thị Kính ngồi may bên cạnh. Thiện Sĩ bỗng thấy mệt mỏi, bèn ngả lưng xuống giường, kê đầu lên gối vợ truyện trò rồi thiếp ngủ. Thi Kính thương chồng học mệt nên lặng yên cho chồng ngủ. Nàng ngắm nhìn khuôn mặt tuấn tú của chồng, bỗng nhận ra ở cằm chồng có một sợi râu mọc ngược. Sẵn con dao nhíp trong thúng khảo đựng đồ may, Thị Kính liền cầm lên kề vào cằm chồng định tỉa sợi râu. Bỗng Thiện Sĩ chợt tỉnh, nhìn thấy vợ cầm dao kề vào cổ mình, nghi vợ chủ trương làm hại , liền vùng dậy nắm lấy cổ tay Thị Kính la lên:
Vở chèo Quan Âm Thị Kính

- Nàng định cầm dao giết tôi lúc tôi đang ngủ ư?

Thị Kính đáp:
- Không phải đâu. Thấy chàng có sợi râu mọc ngược, thiếp định tỉa nó đi, kẻo trông xấu xí lắm!
Nhưng trong cơn nghi ngờ và hoảng hốt, chồng nhất định không tin. Giữa lúc đó, ông bà Họ Sùng nghe tiếng cãi nhau, vội lại hỏi nguyên do. Nghe con trai kể, ông bà tin ngay, khăng khăng đổ tội cho Thị Kính toan giết chồng rồi lập tức cho mời ông bà họ Mãng sang trách móc và trả lại con. Thị Kính không biết giải tỏ sao được nỗi lòng oan khổ của mình, nàng cắn răng chịu tủi nhục từ giã nhà họ Sùng để về nhà cha mẹ. Về ở với cha mẹ, Thị Kính lúc nào cũng sầu phiền. Nỗi oan khổ chẳng còn biết cùng ai thổ lộ. Nàng bèn quyết tâm đi tu để trước là báo đáp ân sâu của cha mẹ, sau là tẩy rửa nỗi oan khiên. Nghĩ rằng, nếu trình thưa với cha me ý định của mình thì cha mẹ không cho đi nên đang đêm, nàng cải trang thành nam tử và trốn khỏi nhà với tấm chân thành của người tìm chân lý. Lại một lần nữa, Thị Kính bị mang tiếng đồn là bỏ nhà theo trai trong khi thật sự nàng tìm đến chùa Vân Tự tu hành.

Sư cụ chùa Vân Tự không biết là gái bèn nhận cho làm tiểu, đặt tên là Kính Tâm. Từ đó Kính Tâm nương náu cửa thiền, lòng vui với đạo nên khuây khỏa được sầu phiền. Tu hành chưa được bao lâu thì một tai vạ lại đến với Kính Tâm .

Trong làng có Thị Mầu, con gái của một phú ông, đi lễ chùa, thấy Kính Tâm thì đem lòng yêu trộm. Đã có lần Thị Mầu nói rõ lòng mình với Kính Tâm nhưng thị vô cùng thất vọng vì Kính Tâm vẫn cứ thản nhiên. Càng ngày, Thị Mầu càng say mê. Quen thói trăng hoa, Thị Mầu bèn tư thông với một người đầy tớ trong nhà, không ngờ thị mang thai và bị làng phạt vạ. Thị Mầu bèn đổ riệt cho tiểu Kính Tâm. Vì thế tiểu Kính Tâm bị làng đòi đến tra khảo. Nàng không biết biện bạch ra sao để gỡ mối oan này nên đành cam chịu sự đánh đập tàn nhẫn.

Sư cụ thấy tiểu bị đánh đòn đau, thương tình, kêu xin với làng nộp khoán. Vì sợ ô danh chốn thiền môn nên dù thương xót Kính Tâm, sư cụ cũng phải để Kính Tâm ra ở mái Tam Quan chứ không được ở trong chùa nữa. Đủ ngày tháng, Thị Mầu sanh một đứa con trai. Phú ông bắt thị đem đứa bé trả cho cha là Kính Tâm. Kính Tâm đang tụng kinh, thấy tiếng trẻ khóc, nhìn ra thì thấy Thị Mầu đem con bỏ đó rồi đi. Động lòng từ bi, nàng ra ẵm lấy đứa bé và chăm lo nuôi nấng hết lòng.

Ngày ngày nàng phải bế nó đi xin sữa ở đầu làng cuối xóm chịu bao nhiêu tiếng cười chê. Sau ba năm, đứa bé đã khôn lớn, vẻ mặt rất khôi ngô, tính nết ngoan ngoãn giống hệt cha nuôi thì cũng là lúc Kính Tâm đạt cái chí của mình sau những ngày đầy oan khổ. Bà chỉ bị yếu qua loa rồi chết. Trước khi nhắm mắt, Kính Tâm dặn đò đứa bé, bà lại viết một phong thư giao cho nó cầm để lại cho cha mẹ

Đứa bé đang than khóc bên xác cha nuôi thật là bi thảm, chợt nhớ lời cha dặn, vội lên chùa trên báo cho sư cụ biết. Sư vãi được cụ sai ra khâm liệm thi hài mới hay Kính Tâm là đàn bà. Tin này tung ra, cả làng đổ đến chùa đông như hội. Nỗi oan tình của bà được tỏ và khi lá thư của bà về đến quê thì ai nấy lại đều biết bà không phải là gái giết chồng. Thiện Sĩ vội theo ông bà họ Mãng tới chùa Vân Tự làm lễ ma chay. Ai nấy đều nhận thấy rằng sự chịu đựng và nhẫn nhục của nàng từ bấy đến nay quả là cùng cực. Sư cụ làm lễ giải oan. Làng bắt phú ông phải chi phí tang ma và Thị Mầu phải tang phục đưa chồng.

Giữa lúc cử hành đàn chay, một đám mây ngũ sắc, giữa trời từ từ hạ xuống trước đàn lễ. Đức Thích Ca Mâu Ni hiện ra, Ngài nhận thấy Kính Tâm là người tu hành đắc đạo nên cho bà làm Phật Quan Âm và cho toàn gia bà được siêu thăng, linh hồn được về gặp nhau nơi cực lạc. Riêng Thiện Sĩ, thấy rõ nông nỗi vợ, sau khi chôn cất Kính Tâm xong, chàng xin ở lại chùa tu đến hết đời.

Vở chèo Quan Âm Thị Kính

Luyện năm cung - Thu Huyền

Luyện năm cung - Thu Huyền


Đường về xóm râm ran tiếng hát
Bến Giang Đình bát ngát nương dâu
Ngư Ông thả lưới buông sào
Con thuyền Chàng ở nơi nào đợi em

Kìa có í i mạn í i thuyền vừa qua bến í Đào í Nguyên
Tiếng trúc giao duyên í i mục đồng hòa nhịp i ái ân
Í một í niềm i í i i ì i i

Chàng này Chàng ơi ! ơi ới í hỡi í i Chàng Em về nhà Chàng ì i
Vui canh cửi với tầm tang ,tay Em se, se chỉ ì í thắm Chàng
Bình văn lúc canh dài, tay nâng chén khuyên mời ì i
Chàng khuây giấc ngủ nhấp hương, nhấp hương trà, trà thơm í ì i i

Chàng này Chàng ơi, i i ới hỡi í i Chàng Em xin Chàng đừng ì ì
Mơ ước cảnh í ì giàu sang i, ta riêng vui vui một í i mối tình
thủy chung lúc thanh bần như bông lý trên giàn ì i .
Cành mai trước ngõ mái hiên ,mái hiên nhà ì i nhà tranh í i i ì í i


Chàng này Chàng ơi ! ơi ới í hỡi í i Chàng Em về nhà Chàng ì i
Vui canh cửi với tầm tang ,tay Em se, se chỉ ì í thắm Chàng
Bình văn lúc canh dài, tay nâng chén khuyên mời ì i
Chàng khuây giấc ngủ nhấp hương, nhấp hương trà, trà thơm í ì i i

Chàng này Chàng ơi, i i ới hỡi í i Chàng Em xin Chàng đừng ì ì
Mơ ước cảnh í ì giàu sang i, ta riêng vui vui một í i mối tình
thủy chung lúc thanh bần như bông lý trên giàn ì i .
Cành mai trước ngõ mái hiên ,mái hiên nhà ì i nhà tranh í i i ì í i

Thứ Hai, 8 tháng 9, 2014

Giới thiệu một số làn điệu chèo hay

Giới thiệu một số làn điệu chèo hay


Chèo là một loại hình nghệ thuật sân khấu dân gian Việt Nam. Chèo phát triển mạnh ở phía bắc Việt Nam mà trọng tâm là vùng đồng bằng Bắc Bộ. Loại hình sân khấu này phát triển cao, giàu tính dân tộc. Chèo mang tính quần chúng và được coi là một loại hình sân khấu của hội hè với đặc điểm sử dụng ngôn ngữ đa thanh, đa nghĩa kết hợp với cách nói ví von giàu tính tự sự, trữ tình. Nếu sân khấu truyền thống Trung Quốc có đại diện tiêu biểu là Kinh kịch của Bắc Kinh và sân khấu Nhật Bản là kịch nô thì đại diện tiêu biểu nhất của sân khấu truyền thống Việt Nam là chèo

Tài liệu tham khảo lại từ các văn bản sau:
1. Tài liệu chép tay của ông Tuyến - thôn 2 - xã Cẩm Sơn - huyện Cẩm Giàng - tỉnh Hải Dương
2. Câu lạc bộ hát Chèo thôn Lai Cầu - xã Hoàng Diệu - huyện Gia Lộc - tỉnh Hải Dương
3. Câu lạc bộ hát Chèo thôn Đồng Hải - xã Đông Vinh - huyện Đông Hưng - tỉnh Thái Bình
4. Tài liệu chép tay của ông Quý - khu Vĩnh Sơn - thị trấn Mạo Khê - huyện Đông Triều - tỉnh Quảng Ninh
5. Tài liệu từ anh Đức - Giám đốc trung tâm Nghệ thuật và Tổ chức biểu diễn tỉnh Hải Dương
6. Tài liệu từ ông Trần Ngọc Tảo - Nhà thơ, Nhà báo , Chi hội trưởng Hội Văn học Nghệ thuật thị xã Cẩm Phả - tỉnh Quảng Ninh ( bạn thân của bố mình). Ông Trần Ngọc Tảo đã mất năm 2010.
Mình gõ lại và sắp xếp theo từng hệ thống như sau:
1. Các thể loại Đường trường
2. Các thể loại hát Sắp
3. Các thể loại hát Sử
4. Các thể loại buồn thảm
5. Các thể loại vui tươi
6. v..v...

Danh sách tài liệu lần lượt đăng lên như sau:

1. Luyện năm cung
2. Luyện tam tầng
3. Chức cẩm hồi văn
4. Tình thư hạ vị
5. Hạ vị đò đưa
6. Đò đưa
7. Quá giang
8. Quân tử vu dịch
9. Đường trường tiếng đàn
10. Đường trường trong rừng
11. Đường trường vị thuỷ
12. Đường trường thu không
13. Đường trường bắn thước
14. Đường trường tải lương
15. Đường trường thuỷ ca
16. Đường trường tứ quý
17. Sa lệch bằng
18. Sa lệch chênh
19. Sa lệch xếp
20. Sắp thường
21. Sắp gối
22. Sắp cổ phong
23. Sắp qua cầu
24. Sắp chợt
25. Sắp dựng
26. Sắp mưa ngâu
27. Sắp song loan
28. Sắp chờ
29. Sắp đan lồng
30. Sắp đếm lớp 1
31. Sắp theo
32. Sắp bát môn
33. Sắp trông trời
34. Sắp chênh
35. Vĩnh khúc
36. Hề mồi
37. Hề mồi sư cụ
38. Con gà rừng
37. Lới lơ
38. Bình tửu
39. Lão say
40. Du xuân
41. Dương xuân
42. Làn thảm
43. Làn thảm xếp
44. Ba than
45. Vãn cầm
46. Vãn canh
47. Vãn xô binh lửa
48. Trần tình
49. Từ khúc
50. Ba mươi tết
51. Tò vò
52. Thánh trị vì
53. Thập nguyệt hoài thai
54. Quyên đề
55. Ru kệ
56. Dậm chân hát Huế
57. Vỉa Huế
58. Chạy Huế
59. Thiên thai
60. Ngũ phúc chúc thọ
61. Sử chuyện
62. Sử dựng
63. Sử bằng
64. Thu rồi
65. Vỡ nước
66. Hát cách
67. Gối hạc
68. Cách cú
69. Hát đúm
70. Nhịp chờ
71. Nhịp đuổi
72. Hát ru
73. Bình thảo
74. Cấm giá
75. Đào liễu
76. Nón thúng quai thao
77. Xẩm huê tình
78. Quạt màn
...
Mong quý vị quan tâm đóng góp thêm.

Thứ Năm, 14 tháng 8, 2014

Hát chèo - Quân tử vu dịch

Hát chèo - Quân tử vu dịch

Châu Long nàng ơi tạm biệt nàng ta có vật này trao tặng
Đây là tấm gương tư mã của Từ Thân, để ngày ngày nàng vấn tóc soi gương tưởng như ta vẫn soi chung với nàng
Thiếp xin giữ lòng thiếp như tấm gương này sáng mãi không mờ chút bụi
Em ơi! Chấp kinh em phải biết tòng ì i quyền
Anh ơi! Em bước chân đi nguyện có Hoàng ì i Thiên
Quyết em chẳng i dám thay lòng đổi dạ
Tưởng những lúc i mặn nồng hương lửa
Má kề gối tựa nay phút bỗng phải biệt ì í i ly
Anh đây thương bạn i sẻ chia no đói
Em bước chân đi chớ ngại cát lầm
Đừng than khóc ruột tằm anh thêm rối
Sầu tình ngán nỗi chia đôi lối đành lòng sao
Chẳng đoái đến bạn ì í i hiền
Em chẳng dám quên
Những phiền đôi lứa tưởng những lúc
Chiều đông tựa cửa ngao ngán thay cảnh vợ xa chồng hết hạ sang đông
Lẻ loi cô phòng tuổi xanh mòn mỏi
Dày ngóng mai trông
Trăm năm chút nghĩa đèo bòng
Xa xôi ai có thấu lòng chăng ai?
Chia tay đôi ngả xa nhau đôi nơi
Xa tiếng xa người, lệ sầu đầy vơi
Dứt áo ly biệt, anh đây chúc nàng hòa vui
Kể sao xiết nỗi ngậm ngùi
Khuyên nàng ghi nhớ lấy lời chấp kinh
Dặm trường thời thân gái một mình
Mối sầu sẻ nửa gánh tình chia hai
Ngõ trúc quanh hình bóng ai đã khuất
Luống bâng khuâng như mất lạng vàng…

Thứ Hai, 28 tháng 7, 2014

Thu hút người trẻ gắn với nghệ thuật truyền thống

Thu hút người trẻ gắn với nghệ thuật truyền thống


(HNM) - Bảo tồn và phát huy văn hóa nghệ thuật dân tộc luôn là nỗi đau đáu của những người đã và đang gắn bó với nghệ thuật truyền thống, thường là những người đứng tuổi. Thì nay, nỗi đau đáu ấy hình thành trong thế hệ 9X với dự án cộng đồng "Chèo 48h - Tôi chèo về quê hương" nhằm lôi cuốn nhiều bạn trẻ tìm hiểu, trải nghiệm, yêu chèo thông qua các hoạt động tương tác với phong cách rất "trẻ" thì thật đáng quý.

Dự án xuất phát từ ý tưởng "Mang chèo dân gian đến gần hơn với giới trẻ" được giải nhất cuộc thi "Ý tưởng Tôi 20" do tổ chức xã hội "Tôi 20" tổ chức. Đó là một băn khoăn rất đáng trân trọng: Tại sao giới trẻ Việt Nam cứ mải miết theo đuổi những trào lưu du nhập từ nước ngoài mà vô tình quên đi nhiều giá trị tốt đẹp của văn hóa dân tộc? Hậu quả là nhiều môn nghệ thuật truyền thống, trong đó có chèo, đang dần mai một vì quá ít bạn trẻ biết tới. Nhóm hình thành ý tưởng còn làm một cuộc khảo sát nhỏ với đối tượng học sinh, sinh viên từ 15 đến 24 tuổi tại Hà Nội, kết quả cho thấy có đến 89% các bạn cho rằng giáo dục về văn hóa nghệ thuật dân gian ở nước ta còn quá nhiều yếu kém, 22% các bạn muốn tìm hiểu, học hỏi thêm về chèo mà không biết tìm hiểu ở đâu và như thế nào. Dưới sự bảo trợ của "Tôi 20" - do một nhóm sinh viên Việt Nam thành lập với mục đích khuyến khích mọi thanh niên trở thành nhà lãnh đạo - nhóm dự án gồm 20 bạn trẻ hiện đang là sinh viên các trường đại học trên địa bàn Hà Nội đã cùng Trung tâm Nghiên cứu, bảo tồn và phát huy âm nhạc dân tộc Việt Nam, Trung tâm Nghiên cứu phát triển bền vững hạ quyết tâm thực hiện dự án ngay trong mùa hè này. Theo Trưởng ban dự án đồng thời là thành viên nhóm ý tưởng "Chèo xuyên quốc gia" Nguyễn Ngọc Ánh, bằng những hoạt động khám phá, học hỏi, trải nghiệm, dự án muốn kết nối thế hệ lãnh đạo tương lai của đất nước với những giá trị đặc sắc, nét đẹp truyền thống dân tộc. Dự án gồm 2 phân đoạn chính. "Chèo khám phá" sẽ diễn ra trong một tháng (tháng 7) với các hoạt động chính dành cho các bạn trẻ đăng ký: Giao lưu trực tiếp với các nghệ sĩ chèo; tham quan Nhà hát Chèo; lên ý tưởng bảo tồn và phát triển chèo; học hát, học múa các trích đoạn chèo kinh điển như "Lý trưởng, mẹ Đốp", các vai thú vị như "Hề Mồi" hay làn điệu đặc trưng "Lới lơ". Còn "Chèo trải nghiệm" sẽ diễn ra vào tháng 8 là hoạt động tổ chức cho các bạn trẻ đi thực tế khám phá cội nguồn nét văn hóa dân gian của nghệ thuật chèo trong cuộc sống hàng ngày của người dân làng Khuốc (Phong Châu, Đông Hưng, Thái Bình), một làng chèo nổi tiếng.

Hiện khoảng 60 bạn trẻ đang trải qua tháng "Chèo khám phá" tại Hà Nội bắt đầu từ ngày 11-7 với 3 buổi học mỗi tuần. Trong hội trường ngồi xếp vòng quanh, những gương mặt 9X ngời lên ham thích được tìm hiểu về chèo, nghe hát những làn điệu nổi tiếng từ Thạc sĩ Lê Tuấn Cường (Nhà hát Chèo Việt Nam), nghệ sĩ Khương Cường (Trung tâm Nghiên cứu, bảo tồn và phát huy âm nhạc dân tộc Việt Nam). Theo đại diện của Ban tổ chức, các buổi học sau sẽ có những nghệ sĩ kỳ cựu đến chia sẻ và truyền đạt, như NSƯT Thanh Ngoan (Giám đốc Nhà hát Chèo Việt Nam), giảng viên Thanh Huyền (ĐH Sân khấu - Điện ảnh Hà Nội).

48h để về với nghệ thuật truyền thống, cụ thể ở đây là chèo, có thể chưa đủ để một bạn trẻ tuổi đôi mươi biết hết về môn nghệ thuật này, có thể hát được, thuộc được một vài làn điệu chèo. Thế nhưng, theo khẳng định của Trưởng ban Nội dung Đinh Thị Thảo: "Dự án không có tham vọng biến các bạn trẻ thành nghệ sĩ, chỉ là sự mở đường để thu hút các bạn về với truyền thống, có được kiến thức nhất định từ đó có ý thức gìn giữ, phát huy giá trị nghệ thuật truyền thống của dân tộc”.
An Nhi

Nhà hát Chèo Việt Nam rộn ràng chiếu chèo

Nhà hát Chèo Việt Nam rộn ràng chiếu chèo khai xuân


Năm nay, chương trình “Sân khấu nhỏ” do Nhà hát Chèo Việt Nam dàn dựng sẽ giới thiệu đến vớicông chúng yêu mến bộ môn nghệ thuật chèo những làn điệu chèo cổ, những giá hát văn đặc sắc, những trích đoạn chèo kinh điển cũng như những điệu dân ca dân vũ cùngchùm hài kịch được sáng tác dựa trên chất liệu chèo dân gian.

“Khách đến chơi nhà” là tiết mục biểu diễn đầu tiên chào khán giả nhân đầu xuân mới. Tiếp đến người xem được thưởng thức tiểu phẩm chèo “Đôi lứa xứng đôi” dàn dựng theo tác phẩm văn học nổi tiếng “Chí Phèo” của nhà văn Nam Cao.Rồi điệu múa được dàn dựng theo làn điệu dân ca “Trèo lên quán dốc” khuấy động khán phòng.v.v. Bên cạnh những làn điệu dân ca quen thuộc và các trích đoạn chèo đặc sắc, thì những tiểu phẩm “Nghèo thật, giàu giả” đả kích thói hình thức, a dua phong trào, hay “Chuyến xe cuối năm” kịch tính mà ăm ắp tình người,tình đồng độicũngđem đến cho người xemnhững tiếng cười sảng khoái nhưng sâu sắc và đậm tính nhân văn.

Một số hình ảnh trong đêm khai diễn chương trình “Sân khấu nhỏ” của Nhà hát Chèo Việt Nam:


Tiết mục múa hát “Khách đến chơi nhà”

Một số hình ảnh trong tiểu phẩm “Đôi lứa xứng đôi”




 Một tiết mục hát dân ca



Vũ điệu múa trên nềnlàn điệu dân ca “Trèo lên quán dốc”




Một số hình ảnh trong tiểu phẩm “Nghèo thật, giàu giả”
 Đông đảo những người yêu mến nghệ thuật chèo đến xem biểu diễn.

Suốt hai tiếng biểu diễn, các nghệ sỹ Nhà hát Chèo Việt Nam đã giới thiệu và cống hiến cho khán giả phần nào những tinh hoa đặc sắc của nghệ thuật chèo, đem đến một tối đầu năm đầy ắp tiếng cười và niềm vui cho khán giả. Chương trình “Sân khấu nhỏ” sẽ đượccác nghệ sỹ Nhà hát Chèo Việt Nam công diễn phục vụ khán giả liên tục vào các tối thứ sáu hàng tuần tại Nhà hát Chèo Kim Mã.

Thứ Tư, 14 tháng 5, 2014

Hát chèo truyền thống

Hát chèo truyền thống

Sinh ra từ cái nôi đồng bằng Bắc Bộ, qua nhiều thế kỷ, sân khấu chèo đã trở thành một nghệ thuật đặc sắc và độc đáo của nền văn hóa dân tộc. Bàn về chèo, không thể không đặt trong tương quan với hoàn cảnh, không gian lịch sử mà trên đó nó hình thành, phát triển, đồng thời cũng không thể không quan tâm đến sự tồn tại của chèo trong

Hát chèo truyền thống

Một cảnh trong màn Khai từ, chương trình biểu diễn trích đoạn chèo cổ của Nhà hát chèo Việt Nam.

Chèo là một loại hình nghệ thuật sân khấu dân gian Việt Nam. Chèo phát triển mạnh ở đồng bằng Bắc Bộ. Loại hình sân khấu này phát triển cao, giàu tính dân tộc. Chèo mang tính quần chúng và được coi là một loại hình sân khấu của hội hè với đặc điểm sử dụng ngôn ngữ đa thanh, đa nghĩa kết hợp với cách nói ví von giàu tính tự sự, trữ tình. Nếu sân khấu truyền thống Trung Quốc có đại diện tiêu biểu là Kinh kịch của Bắc Kinh và sân khấu Nhật Bản là kịch nô thì đại diện tiêu biểu nhất của sân khấu truyền thống Việt Nam là chèo.

Lịch sử

Kinh đô Hoa Lư (Ninh Bình) là đất tổ của sân khấu chèo, người sáng lập là bà Phạm Thị Trân[1][2], một vũ ca tài ba trong hoàng cung nhà Đinh vào thế kỷ 10, sau phát triển rộng ra đồng bằng Bắc Bộ. Địa bàn phố biến từ Nghệ - Tĩnh trở ra. Chèo bắt nguồn từ âm nhạc và múa dân gian, nhất là trò nhại từ thế kỷ 10. Qua thời gian, người Việt đã phát triển các tích truyện ngắn của chèo dựa trên các trò nhại này thành các vở diễn trọn vẹn dài hơn. Sự phát triển của chèo có một mốc quan trọng là thời điểm một binh sỹ quân đội Mông Cổ đã bị bắt ở Việt nam vào thế kỷ 14. Binh sỹ này vốn là một diễn viên nên đã đưa nghệ thuật Kinh kịch của Trung Quốc vào Việt Nam. Trước kia chèo chỉ có phần nói và ngâm các bài dân ca, nhưng do ảnh hưởng của nghệ thuật do người lính bị bắt mang tới, chèo có thêm phần hát.

Vào thế kỷ 15, vua Lê Thánh Tông đã không cho phép biểu diễn chèo trong cung đình, do chịu ảnh hưởng của đạo Khổng. Chèo trở về với nông dân, kịch bản lấy từ truyện viết bằng chữ Nôm. Tới thế kỷ 18, hình thức chèo đã được phát triển mạnh ở vùng nông thôn Việt Nam và tiếp tục phát triển, đạt đến đỉnh cao vào cuối thế kỷ 19. Những vở nổi tiếng như Quan Âm Thị Kính, Lưu Bình Dương Lễ, Kim Nham, Trương Viên xuất hiện trong giai đoạn này. Đến thế kỷ 19, chèo ảnh hưởng của tuồng, khai thác một số tích truyện như Tống Trân, Phạm Tải, hoặc tích truyện Trung Quốc như Hán Sở tranh hùng. Đầu thế kỷ 20, chèo được đưa lên sân khấu thành thị trở thành chèo văn minh. Có thêm một số vở mới ra đời dựa theo các tích truyện cổ tích, truyện Nôm như Tô Thị, Nhị Độ Mai.

Đồng bằng châu thổ sông Hồng luôn là cái nôi của nền văn minh lúa nước của người Việt. Mỗi khi vụ mùa được thu hoạch, họ lại tổ chức các lễ hội để vui chơi và cảm tạ thần thánh đã phù hộ cho vụ mùa no ấm. Nhạc cụ chủ yếu của chèo là trống chèo. Chiếc trống là một phần của văn hoá cổ Việt Nam, người nông dân thường đánh trống để cầu mưa và biểu diễn chèo.

Các đặc trưng của chèo

Nội dung

Không giống tuồng chỉ ca tụng hành động anh hùng của các giới quyền quý, chèo còn miêu tả cuộc sống bình dị của người dân nông thôn. Nhiều vở chèo còn thể hiện cuộc sống vất vả của người phụ nữ sẵn sàng hy sinh bản thân vì người khác. Nội dung của các vở chèo lấy từ những truyện cổ tích, truyện Nôm; được nâng lên một mức cao bằng nghệ thuật sân khấu mang giá trị hiện thực và tư tưởng sâu sắc. Trong chèo, cái thiện luôn thắng cái ác, các sỹ tử tốt bụng, hiền lành, luôn đỗ đạt, làm quan còn người vợ thì tiết nghĩa, cuối cùng sẽ được đoàn tụ với chồng. Các tích trò chủ yếu lấy từ truyện cổ tích, truyện Nôm; ca vũ nhạc từ dân ca dân vũ; lời thơ chủ yếu là thơ dân gian. Lối chèo thường diễn những việc vui cười, những thói xấu của người đời như các vai: Thầy mù, Hương câm, Đồ điếc, Quan Âm Thị Kính. Ngoài ra chèo còn thể hiện tính nhân đạo, như trong vở Trương Viên.

Chèo luôn gắn với chất "trữ tình", thể hiện những xúc cảm và tình cảm cá nhân của con người, phản ánh mối quan tâm chung của nhân loại: tình yêu, tình bạn, tình thương.

Nhân vật trong chèo

Nhân vật trong chèo thường mang tính ước lệ, chuẩn hóa và rập khuôn. Tính cách của các nhân vật trong chèo thường không thay đổi với chính vai diễn đó. Những nhân vật phụ của chèo có thể đổi đi và lắp lại ở bất cứ vở nào, nên hầu như không có tên riêng. Có thể gọi họ là thầy đồ, phú ông, thừa tướng, thư sinh, hề v.v...Tuy nhiên, qua thời gian, một số nhân vật như Thiệt Thê, Thị Kính, Thị Mầu, Súy Vân đã thoát khỏi tính ước lệ đó và trở thành một nhân vật có cá tính riêng.

Diễn viên đóng chèo nói chung là những người không chuyên, hợp nhau trong những tổ chức văn nghệ dân gian gọi là phường chèo hay phường trò..."Hề" là một vai diễn thường có trong các vở diễn chèo. Anh hề được phép chế nhạo thoải mái cũng như những anh hề trong cung điện của vua chúa Châu Âu. Các cảnh diễn có vai hề là nơi để cho người dân đả kích những thói hư tật xấu của xã hội phong kiến hay kể cả vua quan, những người có quyền, có của trong làng xã. Có hai loại hề chính bao gồm :hề áo dài và hề áo ngắn

Kỹ thuật kịch

Đây là loại hình nghệ thuật tổng hợp các yếu tố dân ca, dân vũ và các loại hình nghệ thuật dân gian khác ở vùng đồng bằng Bắc Bộ. Nó là hình thức kể chuyện bằng sân khấu, lấy sân khấu và diễn viên làm phương tiện giao lưu với công chúng, và có thể được biểu diễn ngẫu hứng. Sân khấu chèo dân gian đơn giản, những danh từ chèo sân đình, chiếu chèo cũng phát khởi từ đó.

Đặc điểm nghệ thuật của chèo bao gồm yếu tố kịch tính, kỹ thuật tự sự, phương pháp biểu hiện tính cách nhân vật, tính chất ước lệ và cách điệu. Ngôn ngữ chèo có những đoạn sử dụng những câu thơ chữ Hán, điển cố, hoặc những câu ca dao với khuôn mẫu lục bát rất tự do, phóng khoáng về câu chữ.

Chèo không có cấu trúc cố định năm hồi một kịch như trong sân khấu Châu Âu mà các nghệ sỹ tham gia diễn chèo thường ứng diễn. Do vậy, vở kịch kéo dài hay cắt ngắn tuỳ thuộc vào cảm hứng của người nghệ sỹ hay đòi hỏi của khán giả. Không giống các vở opera buộc các nghệ sỹ phải thuộc lòng từng lời và hát theo nhạc trưởng chỉ huy, nghệ sỹ chèo được phép tự do bẻ làn, nắn điệu để thể hiện cảm xúc của nhân vật. Số làn điệu chèo theo ước tính có khoảng trên 200.

Nhạc cụ

Chèo sử dụng tối thiểu là hai loại nhạc cụ dây là đàn nguyệt và đàn nhị đồng thời thêm cả sáo nữa. Ngoài ra, các nhạc công còn sử dụng thêm trống và chũm chọe. Bộ gõ nếu đầu đủ thì có trống cái, trống con, trống cơm, thanh la, mõ. Trống con dùng để giữ nhịp cho hát, cho múa và đệmác phẩm

* Một số vở chèo tiêu biểu: Bài ca giữ nước, Chu Mãi Thần, Đồng tiền Vạn Lịch, Hoàng Trìu kén vợ, Kim Nham, Lưu Bình Dương Lễ, Nghêu sò ốc hến, Quan Âm Thị Kính, Tuần Ty Đào Huế, Từ Thức gặp tiên, Trần Tử Lệ, Trương Viên.
* Một số trích đoạn tiêu biểu: Thị Mầu lên chùa & Xã trưởng - Mẹ Đốp (vở Quan Âm Thị Kính), Súy Vân giả dại (vở Kim Nham), Đánh ghen (vở Tuần ty Đào Huế), Hồ Nguyệt Cô hóa cáo... Chính vở Tuần ty Đào Huế được trích và phát triển từ vở Chu Mãi Thần mà ra.
* Một số giai điệu chèo cổ : Quân tử dịch, Sử bằng, Đò đưa, Tò vò, Nhịp đuổi, Du xuân, Đào liễu, Ngâm bốn mùa, Đường trường trong rừng, Tuyết sương, Quá giang...
* Nghiên cứu về chèo, Lương Thế Vinh đã viết Hý Phường Phổ Lục.
cho câu hát. Có câu nói " phi trống bất thành chèo" chỉ vị trí quan trọng của chiếc trống trong đêm diễn chèo. Trong chèo hiện đại có sử dụng thêm các nhạc cụ khác để làm phong phú thêm phần đệm như đàn thập lục, đàn tam thập lục, đàn nguyệt, tiêu v.v...


Phân loại chèo

Chèo sân đình

Chèo sân đình là loại hình chèo cổ của những phường chèo xưa, thường được biểu diễn ở các sân đình, sân chùa, sân nhà các gia đình quyền quý. Sân khấu chèo sân đình thường chỉ là một chiếc chiếu trải ngoài sân, đằng sau treo chiếc màn nhỏ, diễn viên và nhạc công ngồi hai bên mép chiếu tạo dàn đế. Chèo diễn theo lối ước lệ, cảnh trí chỉ được thể hiện theo ngôn ngữ, động tác cách điệu của diễn viên. Đạo cụ của người diễn hay sử dụng là chiếc quạt.

Chèo cải lương

Chèo cải lương là một dạng chèo cách tân do Nguyễn Đình Nghi khởi xướng và theo đuổi để thực hiện từ đầu những năm 1920 đến trước Cách mạng tháng Tám 1945, theo xu hướng phê phán tính ước lệ của chèo cổ. Chèo cải lương được soạn thành màn, lớp, bỏ múa và động tác cách điệu trong diễn xuất, xử lý những mô hình làn điệu chèo cổ, đưa nguyên những bài dân ca có sẵn vào bổ sung cho hát chèo. Bộ "Tám trận cười" của Nguyễn Đình Nghi gồm những vở nổi tiếng.

Chèo chái hê

Chèo chái hê là loại hình dân ca hát vào rằm tháng bảy hàng năm, hoặc trong đám tang, đám giỗ của người có tuổi thọ, có nguồn gốc từ việc kết nghĩa giữa 2 làng Vân Tương (Bắc Ninh) và Tam Sơn (Đông Anh, Hà Nội), gồm có các phần:

1. Giáo roi
2. Nhị thập tứ hiếu
3. Múa hát chèo thuyền cạn
4. Múa hát kể thập ân. Kết thúc chương trình hát chèo chái hê thường là hát quan họ.

Chèo hiện đại

theo wikipedia

Thứ Sáu, 11 tháng 4, 2014

Hát chèo làng Khuốc Thái Bình

Hát chèo làng Khuốc Thái Bình


Giữa vùng đồng quê yên ả, cuộc sống của những người dân bao năm nay chân lấm tay bùn, gắn bó với cây lúa, củ khoai, CLB Chèo làng Khuốc (xã Phong Châu, huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình) vẫn tồn tại bền bỉ lưu giữ nghệ thuật chèo cổ truyền.

Thăm làng chèo Khuốc Thái Bình


Trăn trở cùng di sản
Người có công phục dựng chèo làng Khuốc là ông Hà Quang Tiết - một trong những nhạc công kéo nhị nức tiếng một thời của Đoàn Chèo Trung ương. Từ kinh nghiệm bao năm lăn lộn với nghề và ý thức giữ gìn văn hóa truyền thống, ông Tiết đã tham mưu cho cấp ủy, UBND xã mở các lớp dạy nhạc chèo, dạy hát chèo cho con em tại làng xã để có lực lượng kế tiếp. Tuy nhiên những năm 1987 - 1999 do điều kiện kinh tế gia đình khó khăn nên ông đành giao lại cho ông Nguyễn Văn Ro tiếp quản. Ngay ngày đầu thành lập CLB Chèo làng Khuốc đã có gần 100 con em thuộc 3 thế hệ làng Khuốc tham gia theo học và CLB đã trở thành địa chỉ "đỏ” của Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam. Trong đó, 2 nghệ nhân Cao Kim Trạch và Phạm Văn Điền của chèo làng Khuốc là hai nghệ nhân duy nhất của Thái Bình vừa được Nhà nước phong tặng Nghệ nhân nhân dân (đợt đầu). 
Ngoài ra, các nghệ nhân còn truyền nghề cho con cháu tại gia đình. Nhiều cháu trong làng từ 7 đến 12 tuổi đã biết hát hay, diễn giỏi. Có những gia đình cả 3 thế hệ đều theo nghiệp diễn chèo. Nhiều nghệ sĩ "nhí” trưởng thành vẫn tiếp tục theo đuổi nghệ thuật chèo tại trường văn hóa nghệ thuật. Như cháu Mai Phương Thảo là con gái của nghệ sĩ Mai Văn Khôi (nguyên thành viên Đoàn Chèo Lai Châu) là một SV tiêu biểu của Khoa Chèo, Trường CĐVHNT Thái Bình. Mới đây, một phát hiện mới của CLB là Hoàng Thị Trang. Tuy là ca nương còn nhỏ tuổi, cũng là người duy nhất trong số những thiếu niên theo học chèo từ ngày đầu thành lập CLB, nhưng đến giờ, Trang đã có thể hát và thuộc nhiều làn điệu chèo cổ. "Là cháu của một nghệ nhân, em mong sau khi học xong có thể học thêm nhiều làn điệu chèo cổ để có thể truyền lại cho những thế hệ sau để không phụ lòng mong mỏi của các ông bà đã dày công chỉ dạy” - Trang bộc bạch. 
Chủ tịch CLB Chèo làng Khuốc Nguyễn Văn Ro cho biết: "Hiện làng Khuốc có 179 người tham gia đóng góp vào các đoàn nghệ thuật chèo chuyên nghiệp, trong đó có khoảng 30 người được phong nghệ nhân. Nhưng giờ vẫn còn có 5 người vẫn chưa được phong tặng nghệ nhân, vì theo ông Ro họ đều thuộc lớp người có nhiều cống hiến đã góp phần đào tạo và gìn giữ linh hồn nghệ thuật chèo không chỉ của riêng làng Khuốc mà trên toàn quốc như Đào Thị Na, Bùi Văn Ca, Vũ Văn Phụ, Hà Văn Bổng, Phạm Văn Điền… Nay các cụ đã ở vào tuổi "như chuối chín cây”, hoặc không còn nữa…”. Bên cạnh những trăn trở với nghề, CLB Chèo làng Khuốc còn phải đối mặt với thực tế cuộc sống. "Chúng tôi thành lập CLB chèo vì phong trào văn nghệ quần chúng. Mình yêu nghệ thuật thì gắng mình làm, chứ chú bảo bình quân một ngày đi phu hồ họ được trả từ khoảng 100 nghìn, trong khi mỗi đêm biểu diễn diễn viên cùng lắm cũng chỉ được hỗ trợ 30 nghìn, hoặc được ít nào hay ít đó. Nếu không có thì mọi người cũng vui vẻ ủng hộ. Đấy may mà Bộ còn cấp cho 4 cái âm li, nếu không thử hỏi cơ sở vật chất đâu ra mà phục vụ biểu diễn” - ông Ro tâm sự. 
Những nghệ sĩ "thuần nông”
Theo các cụ nghệ nhân trong làng kể lại thì hiện chưa có một nghiên cứu nào xác nhận chèo tồn tại từ bao giờ, nhưng có thể khẳng định chèo đã có mặt cùng với đời sống con người cách đây hàng chục thế kỷ. Đã có không ít nhiều trùm chèo trở thành tổ chèo, nhiều chiếu chèo nổi tiếng vang danh một thời. Nhưng có lẽ không nơi đâu lại lưu giữ, truyền nối chèo như người làng Khuốc. Có lẽ vì thế mà nói đến làng Khuốc, những người trong nghề và yêu mến chèo đều cảm nhận trong tâm tưởng đó là "cái nôi” của bộ môn nghệ thuật chèo Việt Nam và trở thành "địa chỉ đỏ” cho những ai quan tâm, yêu mến nó - một sản phẩm văn hóa phi vật thể của dân tộc tồn tại tới hôm nay và mãi mãi mai sau.

Hát chèo làng Khuốc Thái Bình
Trải qua bao thăng trầm, biến đổi của lịch sử, chèo làng Khuốc lúc thăng, lúc trầm nhưng không hề đánh mất đi cái nguồn cội tâm linh vốn đã trở thành máu thịt của mỗi người dân và được truyền nối từ đời này sang đời khác. Múa hát, diễn chèo đã trở thành nếp sống, lối sống của người dân làng Khuốc. Sau năm 1945, gánh chèo làng Khuốc bị lắng dần, mà vở diễn "Cô gái làng chèo” của Đoàn Chèo Thái Bình từng đạt Huy chương Vàng tại Hội diễn Sân khấu chèo toàn quốc 1985, đã phản ánh toàn bộ hoàn cảnh nguyên mẫu của nó. Điều thú vị là nhân vật chính của vở diễn lại xuất phát từ nguồn cội thân phận của nghệ nhân hát chèo Đào Thị Na, do chính NSƯT Thu Hiền thủ vai.
Ông Hà Quang Tiết nhớ lại: "Chèo làng Khuốc đã truyền đời hàng chục thế hệ nghệ nhân, từ sân khấu dân gian chuyển vào phục vụ trong cung đình của các vương triều phong kiến. Trước Cách mạng tháng Tám, nhiều nghệ nhân của chèo làng Khuốc đã có mặt và làm nổi danh cho nhiều gánh hát và nhà hát ở các đô thị lớn như: Hà Nội, Hải Phòng, Hà Đông, Bắc Ninh… Cho đến nay, những người sành chèo, mê chèo ở Việt Nam và cả thế giới còn ghi nhận nhiều ấn tượng về những đào, những kép xuất thân từ chèo làng Khuốc như Vũ Văn Phụ, Bùi Văn Ca, Đào Thị Na, Cao Kim Trạch, Phạm Văn Điền, Hà Quang Bổng, NSƯT Thu Hiền, Phạm Thị Ruyến…”
Theo một thống kê không đầy đủ trên cả nước, thì trong 15 đoàn chèo chuyên nghiệp đã có tới 13 đoàn có sự góp mặt với 175 nghệ sĩ, nhạc công người Thái Bình, mà trong đó có trên 50 con em xuất thân từ chèo làng Khuốc. Nói như thế để thấy được rằng, chèo làng Khuốc vẫn là cái nôi ươm trồng, cung cấp nhân tài cho bộ môn nghệ thuật chèo độc đáo của Việt Nam.
Hát chèo làng Khuốc Thái Bình
Theo: Daidoanket.vn

Chủ Nhật, 30 tháng 3, 2014

Lịch sử hát chèo Việt Nam

Lịch sử hát chèo Việt Nam

Lịch sử hát chèo Việt nam

Kinh đô Hoa Lư - Ninh Bình được coi là đất tổ của sân khấu chèo, và người sáng lập là bà Phạm Thị Trân, một vũ ca tài ba trong hoàng cung nhà Đinh vào thế kỷ 10. Sau này loại hình nghệ thuật biểu diễn này đã được phát triển rộng ra đồng bằng Bắc Bộ. Địa bàn phố biến từ Nghệ - Tĩnh trở ra.
Đồng bằng châu thổ sông Hồng luôn là cái nôi của nền văn minh lúa nước của người Việt. Mỗi khi vụ mùa được thu hoạch, họ lại tổ chức các lễ hội để vui chơi và cảm tạ thần thánh đã phù hộ cho vụ mùa no ấm. Từ thiên niên kỷ thứ nhất trước Công nguyên, họ đã biết biểu diễn các vở chèo đầu tiên trên sân đình. 

Nhạc cụ chủ yếu của chèo là trống chèo. Chiếc trống là một phần của văn hoá cổ Việt Nam, người nông dân thường đánh trống để cầu mưa và biểu diễn chèo.



Biểu diễn với Trống chèo

Chèo bắt nguồn từ âm nhạc và múa dân gian, nhất là trò nhại từ thế kỷ 10. Qua thời gian, người Việt đã phát triển các tích truyện ngắn của chèo dựa trên các trò nhại này thành các vở diễn trọn vẹn dài hơn.

Sự phát triển của chèo có một mốc quan trọng là thời điểm một binh sỹ quân đội Mông Cổ đã bị bắt ở Việt nam vào thế kỷ 14. Binh sỹ này vốn là một diễn viên nên đã đưa nghệ thuật Kinh kịch của Trung Quốc vào Việt Nam. Trước kia chèo chỉ có phần nói và ngâm các bài dân ca, nhưng do ảnh hưởng của nghệ thuật do người lính bị bắt mang tới, chèo có thêm phần hát.

Vào thế kỷ 15, vua Lê Thánh Tông đã không cho phép biểu diễn chèo trong cung đình, do chịu ảnh hưởng của đạo Khổng. Do không được triều đình ủng hộ, chèo trở về với những người hâm mộ ban đầu là nông dân, kịch bản lấy từ truyện viết bằng chữ Nôm. Tới thế kỷ 18, hình thức chèo đã được phát triển mạnh ở vùng nông thôn Việt Nam và tiếp tục phát triển, đạt đến đỉnh cao vào cuối thế kỷ 19. 

Những vở nổi tiếng như Quan Âm Thị Kính, Lưu Bình Dương Lễ, Kim Nham, Trương Viên xuất hiện trong giai đoạn này. Đến thế kỷ 19, chèo ảnh hưởng của tuồng, khai thác một số tích truyện như Tống Trân, Phạm Tải, hoặc tích truyện Trung Quốc như Hán Sở tranh hùng. Đầu thế kỷ 20, chèo được đưa lên sân khấu thành thị trở thành chèo văn minh. Có thêm một số vở mới ra đời dựa theo các tích truyện cổ tích, truyện Nôm như Tô Thị, Nhị Độ Mai.



Một cảnh trong vở chèo "Trương Viên"

Chèo sân đình, còn được gọi là chèo cổ: Là loại hình chèo cổ của những phường chèo xưa, thường được biểu diễn ở các sân đình, sân chùa, sân nhà các gia đình quyền quý. Sân khấu chèo sân đình thường chỉ là một chiếc chiếu trải ngoài sân, đằng sau treo chiếc màn nhỏ, diễn viên và nhạc công ngồi hai bên mép chiếu tạo dàn đế. 


Một cảnh trong vở Hồ Xuân Hương
Chèo sân đình diễn theo lối ước lệ, cảnh trí chỉ được thể hiện theo ngôn ngữ, động tác cách điệu của diễn viên. Đạo cụ của người diễn hay sử dụng là chiếc quạt.

Trên đường xâm nhập ngày càng sâu vào mọi mặt sinh hoạt đời thường của bà con thôn xóm, những người làm chèo đã nhanh chóng kịp thời chuyển địa điểm diễn qua sân đình, từ lòng đình hoặc thềm đình quay ra ba phương sáu hướng, lấy đấy làm khán trường ngoài trời rộng rãi phóng khoáng; 

Cứ thế, dần hình thành cả loạt nguyên tắc kịch thuật linh hoạt độc đáo, mà nhiều nhà chuyên môn gọi là sân khấu ba mặt.

Quá trình tìm cách thể hiện các tích mới, nhân vật mới, tình huống mới, nghệ nhân đã vay mượn các loại dân ca, dân vũ trò diễn dân gian và "chèo hoá" chúng dần cho tới khi thành thủ pháp của vốn nghề nhà. 

Không loại trừ những cái mới không thể không sáng tạo, ban đầu có thể còn vụng về, gồ ghề, sau được người này kẻ kia uốn nắn sửa sang mà thành hay dần, đẹp dần, với sức diễn tả mạnh dần.

Dường như trong chèo cổ, cái cười ngày càng chiếm thời gian dài, càng chú ý phản ánh những thói hư tật xấu của đời thường. Ðiều đó, làm cho tính xã hội của chèo ngày mỗi nổi đậm về sau. 

Nổi bật hơn cả là lớp việc làng chỉ bằng nói thường, nói lối, nói rao, "ngâm thơ", với đủ thành phần nhân sự của bộ máy chính quyền cơ sở đại diện cho pháp luật, tập tục, đạo lý, tôn giáo, bị vạch mặt thật ê chề.

Song nhà nghề trân trọng gìn giữ, coi là mẫu mực cho nghề Tổ, còn là cả loại hình tượng nhân vật nữ tốt có, chưa hẳn tốt có, chưa hẳn xấu cũng có, đặc biệt là số nhân vật nữ vượt khỏi vòng kiềm toả của đạo lý phong kiến, như Thị Màu, đào Huế, Suý Vân,...


Một cảnh trong vở 
Quan Âm thị Kính
Có điều, nếu Thị Màu chỉ là nhân vật đối tỷ cốt làm bật rõ sự nhẫn nhục của Thị Kính lần nữa, để đức độ nàng khả dĩ đủ mức lên toà sen thành Phật Quan Âm; nhân vật đào Huế tuy chẳng ai nói là "phản diện" nhưng cũng không được nhà Nho "ưa", vẫn chỉ là chi tiết phụ, mà nếu có lược đi cũng không hại gì đến kết cấu và chủ đề tích chuyện; còn Suý Vân, người phụ nữ bất đắc dĩ đành bỏ chồng, lại nằm vào bản thân (tích) trò, hay nói đúng hơn, dễ tới 2/3 thời gian diễn tích Kim Nham là để thể hiện nàng.

Thị Màu, Ðào Huế, Suý Vân đều được nghệ nhân sáng tạo thành khuôn diễn với nhiều bài hát múa dành riêng, độc đáo, tới nay vẫn giữ nguyên giá trị thẩm mỹ và giá trị nghệ thuật.

Những tính cách, chính là đức độ bản sắc nhân vật ấy thường bộc lộ thụ động, tức là họ chỉ phô bày tâm trạng và cách ứng phó khi sự biến đã xẩy ra, bằng cách diễn xuất mang nội dung và hình thức nhiều ít hấp dẫn đủ sức làm gương cho người xem. 

Chỉ số ít mang tính cách vượt khỏi quan điểm phong kiến mới phô bày một cách chủ động, mà có đúng là cố ý, khi nghệ nhân dùng những làn điệu và khuôn diễn thật đặc sắc làm rạng rỡ nghệ thuật cổ truyền: tính từ những nhân vật Thày Ðồ, Thày Bói, Phù Thuỷ, Vợ Mõ đến Thị Màu, Ðào Huế, Suý Vân.

Ðồng thời với sự xuất hiện lần lượt những cái mới trên, tính xung đột hay thường gọi là tính kịch trong một số bản trò cùng tuỳ người soạn, tuỳ tích, tuỳ phường gánh và khán giả mà gia tăng đáng kể. Ðiều này đi theo với việc bộc lộ tính cách nhiều hay ít chủ động của nhân vật. Như xung đột trực diện và quyết liệt giữa Ðào Huế và Tuần Ty (với đào Nấp) là một bước "mới" so với xung đột cũng trực diện trước đấy giữa Châu Long và Lưu Bình, hoặc giữa Vợ Mõ với Xã Trưởng.

Ở đây cũng thấy rõ quá trình thu hút hòa nhập số loại hình dân ca, dân vũ, diễn xướng và trò diễn dân gian làm thành bản thân nghệ thuật chèo, mà thực tế diễn xuất của số vở truyền thống còn hằn rõ dấu vết. 

Cho nên, nói "chèo ra đời từ thời Ðinh, xây dựng trên cơ sở trò nhại và hát múa" như một nhà nghiên cứu đã viết là chưa thỏa đáng. Thực ra, chèo từ loại Giáo phát triển thành có tích, có nhân vật, từ đấy du nhập, chuyển biến các loại hát bỏ bộ (trong sinh hoạt hát Xoan, hát Dậm, hát Dô,...), các loại hát nói (trong hát ả đào, hát văn, hát xẩm,...), kết hợp với số động tác trong múa (hát) chèo đò, múa (hát) cửa đình (các khuôn múa bàn tay, múa lượn ngón, múa cánh tay), múa mâm đên, múa qnạt, múa cờ,...; với cả những trò nói mặt, trò trình nghề vốn rất phổ biến trong những hội làng, đánh dấu từng mức trình độ sáng tạo và thưởng ngoạn nghệ thuật của đồng bào từng vùng.

Như vậy, chèo sân đình hình thành ngôn ngữ nghệ thuật ngay khi thành hình và phát triển kịch chủng, là đã lưu ý nhiều đến số lớp trò chuyên dùng, xếp cạnh số lớp trò đa dùng, trong đó, âm nhạc giữ vai trò rất quan trọng. Nói cách khác, những gì làm người xem phân biệt chèo với các kịch chủng cùng nằm trong loại hình kịch hát dân tộc (Việt) như tuồng, kể thêm cải lương, chưa nói ôpêra, ôpêrét hay kịch nói, những cái lọt vào tai, hiện ra trước mắt người xem (dù là tâm tư tình cảm nhân vật hay không gian thời gian xẩy ra sự biến) chính là âm nhạc, gồm cả nhạc gõ, nhạc khí và làn điệu qua nghệ thuật biểu diễn của nhà nghề.


Do phải phụ thuộc hoặc chịu ảnh hưởng nhiều ít của những biến thiên văn hóa xã hội mỗi thời kỳ lịch sử mà từ Lý Trần về trước, nhạc dân gian và nhạc cung đình, hòa hợp gần như là một; sang đời Hậu Lê có lúc nhạc cung đình hướng ngoại cố giữ vị trí chủ lưu, song không bao lâu cũng chịu bất lực để "tục nhạc" (trong đó có nhạc chèo) bùng lên, ùa tràn vào các lễ nghi triều miếu, bất chấp mấy lần vua Lê chúa Trịnh ra sắc chỉ cấm đoán ngăn chặn, như từng chép ở Ðại Việt sử lý, Vũ trung tuỳ bút. 

Tới thế kỷ XIX, nhà Nguyễn có lúc muốn thâu tóm tất cả những gì thuộc lễ nhạc về một mối, lập hẳn một Thự, rồi một ban Hiệu Thư chuyên lo mà cũng chỉ cản trở chuyện đó phần nào. Bởi chèo sân đình nhờ bám chắc vào đời sống đông đảo bà con và các Hội làng, nên dù ở hoàn cảnh nào cũng được nhân dân bù trì khích lệ mà tồn tại và lớn dần đến ngày nay.

Con đường gần 5 thế kỷ từ chèo Thuyền bản đến chèo Kiều, hoặc có thể nói, từ trò nhà Phật (có thể gọi là chèo sân chùa?)chuyển sang chèo sân đình qua biết bao biến thiên văn hóa xã hội, cả chính trị, đã để lại cho đời cả một kho tàng nghệ thuật sân khấu dân tộc quý giá, đòi các thế hệ sau quan tâm bảo tồn, kế thừa, phát huy và phát triển.

Sự hình thành khuôn diễn cho từng loại nhân vật hay cho từng nhân vật cụ thể là cả một công trình nghệ thuật mang tính tập thể cao độ, trong đó, mỗi người mỗi góp vào, phần nhiều từ ứng diễn ứng tác truyền đời trên cơ sở bản trò. Vì thế hình tượng vai đóng đã hầu thành khuôn diễn chung trên đường nét cơ bản đòi kẻ đi sau phải cố gắng tuân thủ, nhất thể đối với số vai hay, vở diễn hay, đã được giới nghề coi là vốn cũ truyền thống.

Chèo cải lương là một dạng chèo cách tân do Nguyễn Đình Nghi khởi xướng và theo đuổi để thực hiện từ đầu những năm 1920 đến trước Cách mạng tháng Tám 1945, theo xu hướng phê phán tính ước lệ của chèo cổ. Chèo cải lương được soạn thành màn, lớp, bỏ múa và động tác cách điệu trong diễn xuất, xử lý những mô hình làn điệu chèo cổ, đưa nguyên những bài dân ca có sẵn vào bổ sung cho hát chèo. Bộ "Tám trận cười" của Nguyễn Đình Nghi gồm những vở nổi tiếng.

Chèo chái hê, còn gọi là chèo nhị thập tứ hiếu - bắt nguồn từ nội dung diễn xướng: Là loại hình dân ca hát vào rằm tháng bảy hàng năm, hoặc trong đám tang, đám giỗ của người có tuổi thọ, có nguồn gốc từ việc kết nghĩa giữa 2 làng Vân Tương (Bắc Ninh) và Tam Sơn (Đông Anh, Hà Nội), gồm có các phần: 1. Giáo roi 2. Nhị thập tứ hiếu 3. Múa hát chèo thuyền cạn 4. Múa hát kể thập ân. Kết thúc chương trình hát chèo chái hê thường là hát quan họ.



Biểu diễn chèo Chải Hê tại đình Lũng Giang

Điều thú vị là chèo Chải Hê ban đầu nhằm diễn xướng trong các đám tang hiếu của người cao tuổi, về sau, nhu cầu giải trí, giao lưu văn nghệ càng lên cao, nó có thêm những bài hát chèo thuyền và hát huê tình tươi tắn, sinh động. Xưa kia, làng Lũng Giang có đến ba phường chèo Chải Hê tại ba xóm Chùng, Chinh, Đông, thường hát thi với nhau.

Sưu tầm tại: hatvan.vn

Chủ Nhật, 16 tháng 3, 2014

Vở chèo Những vần thơ thép

Vở chèo Những vần thơ thép

(HNM) - Tối 13-1, Nhà hát Chèo Việt Nam đã có buổi diễn vở "Những vần thơ thép" mở màn các hoạt động của Cục Nghệ thuật Biểu diễn (Bộ VH-TT&DL) chào mừng Đại hội XI của Đảng. Khán giả đã được dẫn dắt đến với những vần thơ hào sảng của Bác Hồ trong tập "Nhật ký trong tù".

Vở chèo “Những vần thơ thép” do NSND Bùi Đắc Sừ làm đạo diễn.

Không phải ngẫu nhiên mà ngay trong lần thử nghiệm đề tài hiện đại với "Những vần thơ thép", Nhà hát Chèo Việt Nam đã đoạt ngay HCV duy nhất trong Hội diễn Sân khấu chèo chuyên nghiệp toàn quốc (2005). Vở hay, liên tục được công diễn trong những kỳ cuộc quan trọng của ngành, của đất nước. Với ý tưởng chủ đạo là phản ánh cuộc sống đấu tranh của Bác Hồ trong những tháng ngày bị giam ở nhà tù của Tưởng Giới Thạch, "Những vần thơ thép" là sự dày công sáng tạo, thể hiện của êkíp sân khấu chèo hàng đầu nước ta gồm đạo diễn, NSND Bùi Đắc Sừ, nhạc sĩ Đôn Truyền, NSND Lê Ngọc Cường (biên đạo múa), NSND Thanh Hoài, NSƯT Phú Kiên, NSƯT Khắc Tư, Minh Thu, Minh Tâm, Thu Hiền... Nhà biên kịch Trần Đình Ngôn đã cân nhắc từng lời thoại, chăm chút từng tình huống, làn điệu trong suốt 10 năm trời để cho ra tác phẩm
Nghệ sĩ ưu tú Phú Kiên - Vai Bác Hồ
Lần công diễn này, "Những vần thơ thép" vẫn mang dáng vẻ của lần công diễn 6 năm trước và trong Liên hoan Sân khấu lịch sử kỷ niệm 1000 năm Thăng Long - Hà Nội (tháng 8-2010). Nhưng các nghệ sĩ đã làm vở diễn cô đọng hơn, huy động lớp quần chúng đông đảo, mang tính cổ vũ tích cực. Câu chuyện về cuộc sống bị đày đọa vô cớ trong lao tù của chính quyền Tưởng Giới Thạch ở Quảng Tây (Trung Quốc) của vị lãnh tụ Hồ Chí Minh hiện lên chân thực, có sức lay động lớn. "Thân thể ở trong lao/Tinh thần ở ngoài lao/Muốn nên sự nghiệp lớn/Tinh thần phải càng cao" - cái tinh thần bất diệt của Người đã cảm hóa, khiến biết bao người Trung Quốc nể phục. Từ bạn tù đến lính canh, cả cô điệp viên mưu mô Lý Quế Hoa đến quan cảnh trưởng... Rút cuộc, họ đều đứng về phía Bác Hồ để bảo vệ chính nghĩa.

Cái tài tình của các nghệ sĩ là khéo dẫn dắt khán giả đến với tinh thần của Bác Hồ qua những vần thơ đẹp. Người xem dễ dàng cảm thơ của Người, thêm yêu thêm gắn bó với nghệ thuật chèo. Hầu hết các diễn viên phải hóa thân vào các vai người Trung Quốc: bạn tù, cai ngục, cảnh trưởng, điệp viên... NSƯT Phú Kiên vào vai Bác Hồ khá nhuyễn, từ vóc dáng, cử chỉ đến tiếng nói, điệu hát đều mềm mại. Mỗi câu thoại trong các tình huống như: Bác cảm thông với người dân Trung Quốc, chấp nhận chịu cảnh tù lao, tinh tường vạch mặt gián điệp Quế Hoa hay đối đáp thông minh cùng bác sĩ và cảnh trưởng... đều được lồng ghép và trích từ 134 bài trong tập thơ, thêm vần điệu nên nghe thật thấm thía. Khán giả có thể cảm nhận rõ ràng tinh thần "thép" của Người khi càng về cuối, cao trào được đẩy lên qua các tình huống Bác và bạn tù bị đàn áp, đánh đập khổ ải, bị gán tội liên quan đến cái chết của người khác, bị bọn gian tà dùng kế đẩy sang nhà tù khác... Lời thơ cất lên: "Thơ xưa yêu cảnh thiên nhiên đẹp/Mây, gió, trăng, hoa, tuyết, núi, sông/ Nay ở trong thơ nên có thép/Nhà thơ cũng phải biết xung phong", người xem càng hiểu tâm hồn yêu nghệ thuật, yêu cái đẹp và con người của một nhà cách mạng, vị lãnh tụ vĩ đại Hồ Chí Minh. Và điều đặc biệt là, thơ Bác có thể gắn kết khối đại đoàn kết toàn dân, xóa nhòa mọi khoảng cách dân tộc, kết nối tình hữu nghị năm châu.

Vở chèo "Những vần thơ thép" thu hút đông đảo công chúng, là một trong những hoạt động nghệ thuật giàu ý nghĩa cổ vũ, xứng đáng mở màn cho hoạt động chào mừng Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI.

Những vần thơ thép

Thứ Bảy, 8 tháng 3, 2014

Nghệ thuật hát chèo

Nghệ thuật hát chèo

Cái nôi của sân khấu chèo là Đồng bằng Bắc Bộ, địa bàn phổ biến là từ Nghệ Tĩnh trở ra. Khởi đầu chèo bằng hình thức trò nhại, trò diễn xướng dân gian từ thế kỷ 11. Lúc đầu xuất hiện ở các làng quê, dần trở thành một loại hình sân khấu tiêu biểu của người dân đồng bằng Bắc Bộ.

Nghệ thuật chèo bao gồm múa, hát, âm nhạc và văn học trong tích trò. Văn chèo đậm màu sắc trữ tình của ca dao, tục ngữ, tràn đầy tính lạc quan trong những cái cười dân dã, thông minh, hóm hỉnh và không kém phần trí tuệ. Tính nhân văn trong các vở chèo rất rõ nét. Quyền con người, thiện thắng ác luôn được đề cập, được khẳng định. Các vở chèo cổ bao giờ cũng kết thúc có hậu theo truyền thống phương Ðông. Nhiều vở được xếp vào vốn quý của sân khấu cổ truyền dân tộc.

Từ khi ra đời đến nay, tiếng trống chèo vẫn có ma lực cuốn hút bao thế hệ khán giả, không kể tuổi tác, địa vị xã hội hay hay quốc tịch. Nhưng có giai đoạn sân khấu chèo đã trải qua những khó khăn tưởng chừng không đứng vững nổi. Giờ đây, sân khấu chèo đang được khôi phục nhằm giữ gìn và bảo tồn một loại hình nghệ thuật đậm đà bản sắc dân tộc.

Đã có một thời, Hội chèo đôi khi kéo dài cả tuần lễ, mặc dầu còn lâu mới đến Hội nhưng trong mỗi gia đình nông dân đều đã có sự chuẩn bị tham gia kỳ Hội với những vai chèo yêu thích.

Đã từ lâu, nghệ thuật chèo đối với người nông dân Việt Nam vừa là sân khấu, vừa là thơ ca và âm nhạc và là nguồn duy nhất trong đời sống tinh thần của mình. Trong các vở chèo cổ thường vạch mặt bọn quan lại phong kiến và thực dân áp bức giống nòi. Ơở các vỡ diễn, người nông dân thấy được sự phản ánh đời sống của mình với những mặt tích cực và phản diện, những ước mơ và ý niệm của mình về cái thiện và cái ác. Mọi người đã yêu và càng yêu nghệ thuật chèo bởi tính nhân đạo và sự tươi mát của nó, và bởi nó mang màu sắc dân tộc độc đáo.

Những vở chèo - đó là các mẩu chuyện sân khấu của những tiểu thuyết thi ca, nó đặc trưng bởi chất thơ mộng, hành văn nhuần nhuyễn, nó có những truyền thống lâu đời của thi ca phương Đông. Ngoài việc chèo là một nghệ thuật được nảy sinh từ quần chúng nông dân, nó còn được sử dụng rất nhiều tục ngữ và ca dao dân gian do nhân dân sáng tạo ra qua hàng ngàn năm.

Nghệ thuật cơ bản trong các vai của diễn viên là múa mà qua đó nó có thể hiện được tất cả sự uyển chuyển nhịp nhàng của con người. Những nghệ nhân lớp trước thường nói rằng: "Múa hình tượng đẹp đẽ của nội tâm". Song song với cái đó, điệu múa trong chèo không hoàn toàn mang tính trừu tượng và tượng trưng, ước lệ như một số loại hình nghệ thuật thông thường khác bởi một lẽ nguồn gốc của nó là những hình ảnh sinh hoạt, lao động qua các buổi diễn ở nông thôn.

Một vai trò quan trọng trong chèo là âm nhạc. Ở Việt Nam người ta thường nói "đừng diễn chèo" mà phải là "hát chèo". Âm điệu trong nghệ thuật chèo ngày càng hấp dẫn, nó có cả màu sắc âm nhạc dân tộc và hiện đại độc đáo.

Hiện nay, tại Thủ đô và một số thành phố khác đã thành lập những đoàn nghệ thuật chèo chuyên nghiệp, đóng vai trò quan trọng trong công tác truyền bá nền nghệ thuật này và đồng thời hỗ trợ cho các đoàn nghệ thuật nghiệp dư.

Nghệ thuật chèo ngày nay vẫn được nhân dân ưa thích. Trong chèo mỗi người Việt Nam đều thấy được sự phản ảnh của những giá trị đạo đức cao quý như: lòng dũng cảm, sự hy sinh quên mình, sự trung thành, sự từ thiện. Do vậy, ở các vở chèo cổ, nội dung của nó ta tưởng như khác xa thực tế ngày hôm nay; vậy mà nó vẫn làm xúc động lòng khán giả của nhiều thế hệ già cũng như trẻ. Điều đó nói lên tính tươi trẻ và sức sống của nghệ thuật chèo, đồng thời cũng đặt ra trước nghệ thuật chèo những vấn đề mới phức tạp.

Vấn đề cấp thiết hơn cả là phải phản ánh trong nghệ thuật cổ những đề tài mới, cuộc sống mới. Hoàn toàn đúng quy luật, bởi lẽ ngày nay khán giả muốn được thấy trong bất cứ loại hình nghệ thuật sân khấu nào cũng có những con người thời đại của mình, làm biến đổi bộ mặt ở nông thôn Việt Nam. Và tuy nhiên, làm được điều đó không phải dễ dàng, nhưng cũng đã đạt được những thành tích nhất định. Ngay từ những năm 50, đã có những vở diễn về cách mạng (Núi đá), về lịch sử đất nước (Khởi nghĩa Lam Sơn), về cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (Mối tình Điện Biên), về cuộc chiến đấu chống xâm lược Mỹ (Đường về trận địa), về công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa ở nông thôn (Con trâu hợp tác). Sự xuất hiện của những vở diễn này chứng tỏ rằng nghệ thuật chèo nói riêng và nghệ thuật sân khấu nói chung đều có khả năng phản ánh được đề tài hiện đại. Tuy vậy, khán giả Việt Nam vẫn còn thích xem các vở chèo cổ cùng với các loại hình nghệ thuật khác như tuồng, cải lương, dân ca cảnh và say mê theo dõi các buổi diễn kịch nói, ô-pê-ra về các đề tài truyền thống và hiện đại.

Nghệ thuật hát chèo

Nghệ thuật hát chèo có từ bao giờ

Nghệ thuật hát chèo có từ bao giờ?

Hàng trăm năm nay, nghệ thuật hát chèo, tuồng, múa rối nước… đã là những loại hình nghệ thuật truyền thống độc đáo của Việt Nam. Trong đó, Chèo là một loại hình sân khấu dân gian sinh ra từ đồng bằng Bắc Bộ – một vùng vốn giàu có dân ca, ca dao tục ngữ, truyện cười, ví von, ẩn dụ…

Con người, cảnh vật của cả một vùng quê rộng lớn in đậm nét trong các câu chuyện được kể lại qua chiếu Chèo sân đình. Trải qua thời gian, luôn được bồi đắp sàng lọc, nghệ thuật Chèo đã hình thành một phong cách độc đáo. Nó đặc biệt phổ biến ở đồng bằng sông Hồng. Chỉ riêng hai tỉnh Thái Bình, Hải Dương đã có tới hàng trăm đoàn chèo chuyên nghiệp và nghiệp dư.



Ngay cả hiện tại, với sự thu hút của không ít lĩnh vực như: điện ảnh, radio, video, truyền hình… nhưng nếu không có nghệ thuật chèo thì người ta cũng khó mà có một hình dung đầy đủ về đời sống văn hóa của nông thôn Việt Nam xưa.

Trên đường phát triển của mình, Chèo đã tiếp nhận nhiều nhân tố mới lạ cả về cấu trúc lẫn âm nhạc, múa, mỹ thuật… Những thủ pháp cấu trúc của kịch nói (gốc phương Tây) đã được du nhập vào Chèo để phục vụ cho việc kể chuyện của Chèo thêm hấp dẫn, nhưng đã được “Chèo hóa”, hài hòa trong mạch kể. Những làn điệu dân ca các vùng, miền Trung, miền Nam, các dân tộc miền núi, thậm chí của cả nước khác trên thế giới cũng được “Chèo hóa” đi cho phù hợp với phong cách của nó, phù hợp với “khẩu vị” của người dân quê đồng bằng Bắc bộ Việt Nam. Có thể nói, người Việt Nam đã hình thành nên một kiểu “Văn hóa Chèo” bền vững và đầy sức sống (bao gồm Văn Chèo, Nhạc Chèo, Múa Chèo, Mỹ thuật Chèo và Cách diễn Chèo). Nó không bị đồng hóa, mà còn có khả năng tự làm phong phú bằng cách đồng hóa các yếu tố ngoại nhập trên con đường phát triển của mình và luôn luôn đào thải những gì không phù hợp với nó.

Cái chất dân dã mộc mạc, nhắn nhủ duyên dáng, hài hước đã tạo dựng lên cái xương cốt của Chèo với phong vị riêng. Nó nghiêm chỉnh đấy nhưng cũng hài hước ngay được. Cái bi tưởng đến tột cùng nhưng lại xóa ngay được bằng cái hài ý vị, thoắt hư thoắt thực, có lúc nhân cái phi lí để làm rõ cái có lý, cứ thế dẫn người xem vào một cuộc hành trình đầy bất ngờ và thú vị.

Nghệ thuật hát chèo đối với người nông dân Việt Nam vừa là sân khấu, vừa là thơ ca vừa là âm nhạc. Những vở chèo là các mẩu chuyện sân khấu có những truyền thống lâu đời của thi ca phương Đông. Ngoài việc chèo là một nghệ thuật được nảy sinh từ quần chúng nông dân, nó còn được sử dụng rất nhiều tục ngữ và ca dao dân gian do nhân dân sáng tạo ra qua hàng ngàn năm.

Chính cái đặc sắc của tích Chèo: những giai điệu dân ca, xẩm, Chầu văn, Ca trù, Trống quân, Quan họ, Đò đưa… cùng những nhịp điệu của các đám tế lễ, múa rước, những tiết tấu đặc trưng của đồng bằng Bắc Bộ, những nét múa dân tộc, những màu sắc trong tranh dân gian… đã hoà quyện vào nhau tìm được chỗ đứng xứng đáng đáng của mình tạo nên cái phong vị chèo khó trộn lẫn.

Nhiều khi “diễn Chèo” cùng đồng nghĩa với “hát Chèo”. Chính là vì phần âm nhạc của nó chiếm một vị trí đặc biệt so với các yếu tố khác. Âm nhạc đã trở thành cái nền của một vở Chèo, là sợi chỉ xuyên suốt cả tích trò, tạo nên phong cách chèo ở mọi thời đại.

Ngoài âm nhạc, nghệ thuật cơ bản trong các vai của diễn viên chèo còn là múa. Những nghệ nhân lớp trước thường nói rằng: “Múa là hình tượng đẹp đẽ của nội tâm”. Điệu múa trong chèo không hoàn toàn mang tính trừu tượng và tượng trưng, ước lệ như một số loại hình nghệ thuật thông thường khác bởi lẽ nguồn gốc của nó là những hình ảnh sinh hoạt, lao động ở nông thôn.

Các vở chèo cổ thường vạch mặt bọn quan lại phong kiến và thực dân áp bức. Ở các vở diễn, người nông dân thấy được đời sống của mình với những mặt tích cực và phản diện, những ước mơ và ý niệm của mình về cái thiện và cái ác. Mọi người đã yêu nghệ thuật chèo chính bởi tính nhân đạo và sự tươi mát vốn có của nó.

Chèo ngày nay vẫn là một loại hình nghệ thuật được nhiều người ưa thích. Trong chèo, mỗi người Việt Nam đều thấy được sự phản ảnh của những giá trị đạo đức cao quý như: lòng dũng cảm, đức hy sinh, sự trung thành, nhân từ… Do vậy, ở các vở chèo nhiều khi nội dung của nó ta tưởng như khác xa thực tế hôm nay nhưng nó vẫn làm xúc động khán giả của nhiều thế hệ.

Nghệ thuật hát chèo có từ bao giờ

Thứ Bảy, 8 tháng 2, 2014

Gìn giữ không gian Chèo truyền thống

Gìn giữ không gian Chèo truyền thống

NSƯT Thanh Ngoan vừa khôi phục một chiếu chèo cổ tại Nhà hát Chèo Kim Mã, Hà Nội với mục đích bảo tồn và phát huy nghệ thuật chèo truyền thống. Hơn thế, chị còn muốn tạo cơ hội cho khách nước ngoài tìm hiểu về nghệ thuật chèo truyền thống Việt Nam.


Nghệ sĩ ưu tú Thanh Ngoan

Nghệ sĩ ưu tú Thanh Ngoan đang giữ chức Giám đốc nhà hát Chèo Việt Nam. Sau 35 năm gắn bó với bộ môn nghệ thuật truyền thống này, mong muốn lớn nhất của chị là khôi phục một chiếu chèo cổ tại Hà Nội. Trước đây chiếu chèo này đã được lập, nhưng vì sân khấu nhỏ của rạp Kim Mã lúc đó được tận dụng ở phòng khách, xập xệ quá nên được ít lâu thì phải dừng để trùng tu. Vì vậy, chiếu chèo cổ đã một lần lỡ hẹn với khán giả. Gần 3 năm nay, sân khấu nhỏ đã khang trang và cũng là lúc Thanh Ngoan đóng vai trò "đầu tầu” tìm hướng đi cho chèo, đặc biệt là chèo cổ.

Khi trở thành người đứng đầu nhà hát nghệ sĩ Thanh Ngoan luôn trăn trở với câu hỏi vì sao nghệ thuật chèo truyền thống hiện nay bị công chúng thờ ơ, vắng bóng, trong khi những bộ môn khác như múa rối, ca trù đang dần thu hút được người xem trở lại. "Mơ ước của tôi là Nhà hát Chèo Kim Mã sẽ là điểm đến của du khách trong và ngoài nước, giống như điểm đến Văn Miếu - Quốc Tử Giám, Nhà hát Múa rối Việt Nam”, NSƯT Thanh Ngoan tâm sự.

Theo nghệ sĩ Thanh Ngoan, vì là chương trình mang tính chất bảo tồn, giới thiệu những đặc sắc nên ở lần trở lại này, chiếu chèo giữ nguyên phong cách cổ, chỉ nâng tầm nghệ thuật của các tiết mục lên một bước để dễ tiếp cận hơn với khán giả. Không gian của chiếu chèo được chỉnh sửa lại, bằng cách trải chiếu hoa từ trên xuống dưới, và khán giả sẽ được ngồi gần với diễn viên. Sân khấu mở không có cánh gà, chỉ có một cửa sinh, cửa tử được che bằng rèm. Đó là kiểu trang trí đơn giản nhưng phù hợp với đời sống ngày hôm nay. Nội dung của chiếu chèo bao gồm 5 chương trình được biểu diễn theo lối chiếu chèo truyền thống. Đầu tiên sẽ là cụ trùm trò dẫn chuyện; chương trình thứ 2 là một đôi hề chèo dẫn trò; chương trình thứ 3 là một nam, một nữ dẫn trò; chương trình thứ 4 là một hề áo ngắn và hề áo dài; chương trình thứ 5 là dành cho khách nước ngoài với những mảnh trò, tích trò thật ngắn gọn, mang tính chất học thuật của chèo được diễn trong vòng 45 phút để giới thiệu. Rộng hơn, Nhà hát còn giới thiệu những đặc sản âm nhạc truyền thống Việt Nam với chầu văn, hát xẩm, ca trù, những làn điệu dân ca đồng bằng Bắc Bộ...

NSƯT Thanh Ngoan cũng cho biết, biểu diễn chèo phục vụ du khách nước ngoài, chị không lo lắng quá nhiều về việc bất đồng ngôn ngữ, bởi âm nhạc và văn hóa là không có biên giới, nếu như tìm đúng điểm, thì hạn chế về ngôn ngữ chỉ là chuyện rất nhỏ. Theo chị, Chiếu chèo cổ của nhà hát sẽ không bao giờ dịch chèo sang tiếng Anh, bởi như thế là mất đi bản sắc của chèo. Một người nước ngoài từng tâm sự với chị: dù không hiểu ngôn ngữ Việt Nam, nhưng khi nhắm mắt và lắng nghe chèo, họ cảm nhận một cuộc sống thanh bình. Họ mong một lần được đặt chân lên quê hương của những giai điệu đó.

Lời chia sẻ của vị khách nọ như một nguồn động viên, để rồi từ đó, chị càng thấy tự hào với bộ môn nghệ thuật truyền thống này, và càng quyết tâm khôi phục chiếu chèo cổ. Dẫu vậy, chị không khỏi xót xa bởi có những xuất diễn chỉ bán được 6 vé…Nhưng không vì thế mà nản lòng, "anh chị em nghệ sĩ cứ động viên nhau,  bước đầu hãy tạo được cảm hứng cho khán giả và kéo được khán giả đến rạp, uống trà, nhấm nháp thanh kẹo lạc, và ngồi thưởng thức những trích đoạn trong chèo cổ là tốt lắm rồi”- Thanh Ngoan chia sẻ. Mở được chiếu chèo rồi, giờ đây mơ ước lớn nhất của chị và các đồng nghiệp là ngày càng có nhiều  người biết đến sự hiện diện của chiếu chèo cổ, và sẽ  không còn những đêm diễn mà số vé vỏn vẹn đếm được trên đầu ngón tay…

Gìn giữ không gian Chèo truyền thống

Vở Chèo Đường Trường Duyên Phận

Vở Chèo Đường Trường Duyên Phận - Nhà hát chèo Việt Nam
Vở Chèo Đường Trường Duyên Phận
Vở Chèo: Đường Trường Duyên Phận

(Huy chương Bạc trong cuộc thi sân khấu Chèo chuyên nghiệp toàn quốc năm 2013)

Phóng tác từ truyện phim "Đào Sen" của tác giả Lê Thiết Cương
Tác giả: Trần Đình Văn
Đạo diễn: Đoàn Vinh



Biểu diễn: 
Cả Hân ... Bá Dũng
Sen ... Hà Thảo
Kép Thăng ... Tuấn Tài
Trùm Lương ... Quang Trưởng
Bảo Ngọc ... NSUT Thu Hương
Trưởng Hải ... Đức Kiên
Quan Đốc Học ... NSUT Ngọc Hưng
Bà Đốc Học ... NSUT Vân Quyền
Mụ Mối ... Thu Hương
Quản Gia ... Bách Hợp
Nhiêu ... Văn Quân
Nhỡ ... Duy Toàn
Cùng tập thể Nhà hát Chèo Việt Nam trình diễn


 

Đăng Ký Học

Thông tin liên hệ

Hotline: 0916 955 085 – 093 2269 135

Địa chỉ:213 Cao Đạt,P1,Q5,TP HCM

Hình Ảnh